đề bài tây tiến
- Bài thơ ban đầu có nhan đề "Nhớ Tây Tiến": + Với nhan đề này Quang Dũng đã hướng người đọc đến tư tưởng chủ đề của tác phẩm,đó là nỗi nhớ về binh đoàn Tây Tiến. + Hạn chế của nhan đề này là chưa làm nổi bật được hình tượng trung tâm của tác phẩm.
Đề thi đại học khối C năm 2013 từng yêu cầu cảm nhận hình tượng người lính Tây Tiến, đề minh họa kỳ thi THPT Quốc gia 2017 cũng hỏi về hình tượng này. Năm nay các em cần chú ý đến bức tranh thiên nhiên và nỗi nhớ trong đoạn một và đoạn hai. II. Bộ đề thi thử Văn tác phẩm TÂY TIẾN: 1. Cảm nhận vẻ đẹp hình tượng người lính Tây Tiến.
- Sự thể hiện cảm hứng lãng mạn trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng: Cần phân tích cảm hứng lãng mạn trong bài thơ Tây Tiến trên hai phương diện: nội dung cảm hứng (nỗi nhớ về một thời chiến chinh gian khổ, nhiều mất mát hy sinh nhưng cũng thật hào hùng; hình tượng thiên nhiên; hình tượng người lính Tây Tiến); nghệ thuật thể hiện (bút pháp tương phản trong việc thể hiện hiện
Tuyển chọn những bài văn hay chủ đề Mở bài Tây Tiến trực tiếp, gián tiếp. Các bài văn mẫu được biên soạn, tổng hợp chi tiết, đầy đủ từ các bài viết hay, xuất sắc nhất của các bạn học sinh trên cả nước. Mời các em cùng tham khảo nhé!
Đọc Tài Liệu hướng dẫn trả lời các câu hỏi bài tập giải KHTN 7 Chân trời sáng tạo bài 26: Thực hành về hô hấp tế bào ở thực vật thông qua sự nảy mầm của hạt, giúp các em chuẩn bị tốt kiến thức trước khi đến lớp cho nội dung bài học thực hành tìm hiểu về hô hấp tế bào ở thực vật thông qua
Dàn ý phân tích bài thơ Tây Tiến tổng quát; Soạn bài Tây Tiến; 1. Phân tích đề bài - Yêu cầu đề: phân tích nội dung của 4 câu thơ cuối bài Tây Tiến (khổ 4 Tây Tiến). - Kiểu bài: dạng bài nghị luận văn học (phân tích đoạn trích của tác phẩm). - Vấn đề nghị
Vay Tiền Nhanh Cầm Đồ. Để tìm hiểu về hoàn cảnh sáng tác, chủ đề bài thơ, từ đó có thêm cơ sở cho việc phân tích bài thơ Tây Tiến, các em học sinh hãy cùng tham khảo bài viết Hoàn cảnh sáng tác và chủ đề bài thơ Tây Tiến dưới đây. Bài viết liên quan Cảm nhận về tâm trạng của tác giả khi nhớ về miền Tây Bắc trong bài Tây Tiến Cảm nhận vẻ đẹp của đoạn thơ sau đây trong bài thơ Tây Tiến "Doanh trại... đong đưa" Cảm nhận về vẻ đẹp thơ mộng của cảnh và người miền Tây trong bài Tây Tiến Giới thiệu về bài thơ Bếp lửa Hoàn cảnh sáng tác Vịnh khoa thi Hương Đề bài Hoàn cảnh sáng tác và chủ đề bài thơ Tây TiếnMục Lục bài viếtI. Dàn ý chi tiếtII. Bài văn mẫu I. Dàn ý Hoàn cảnh sáng tác và chủ đề bài thơ Tây Tiến 1. Mở bàiGiới thiệu nhà thơ Quang Dũng và bài thơ Tây Tiến 2. Thân bài- Hoàn cảnh sáng tác+ Quang Dũng từng là người lính trong binh đoàn Tây Tiến-> Viết về Tây Tiến là viết về những trải nghiệm của người lính từng cầm súng chiến đấu trong binh đoàn Tây Tiến.+ Binh đoàn Tây Tiến được thành lập năm 1947 với nhiệm vụ chính là phối hợp với bộ đội Lào đánh tiêu hao lực lượng địch -> Quang Dũng từng giữ chức Đại đội trưởng.+ Cuối năm 1948, Quang Dũng nhận được lệnh chuyển sang đơn vị khác, tại Phù Lưu Chanh, trong cảm xúc nghẹn ngào, lưu luyến của giây phút chia li, Quang Dũng đã viết bài thơ Tây Chủ đề+ Tây Tiến không chỉ viết về nỗi nhớ đồng đội, nhớ mảnh đất Tây Bắc -> Thể hiện tấm lòng gắn bó sâu sắc của nhà thơ Quang Dũng với đơn vị, đồng đội, mảnh đất kháng chiến.+ Tái hiện, khắc họa đầy sống động chân dung lí tưởng, tâm hồn của những người lính trong kháng chiến chống Pháp. 3. Kết bàiKhái quát đặc sắc bài thơ II. Bài văn mẫu Hoàn cảnh sáng tác và chủ đề bài thơ Tây TiếnQuang Dũng là người nghệ sĩ đa tài, sức sáng tạo của ông ghi dấu trên nhiều lĩnh vực như viết văn, làm thơ, vẽ tranh , trong đó nổi bật hơn cả có thể kể đến thơ ca. Giữa rừng thơ ca kháng chiến muôn màu muôn vẻ, hồn thơ Quang Dũng được độc giả đặc biệt ấn tượng với nét phóng khoáng, ngang tàng nhưng rất đỗi hào hoa, lãng mạn điển hình cho tâm hồn thanh lịch, hào hoa của những chàng trai Hà thành. Nếu nhắc đến Quang Dũng ta nhớ đến chất ngang tàng, hào hoa thì Tây Tiến chính là kết tinh tiêu biểu nhất cho hồn thơ Dũng từng là người lính trong binh đoàn Tây Tiến, bởi vậy có thể nói viết về Tây Tiến Quang Dũng đã đứng ở vị trí của những người lính để ghi lại những trải nghiệm của mình cùng đồng đội trong những ngày kháng chiến gian khổ mà cũng đáng nhớ nhất trong cuộc đời mình. Binh đoàn Tây Tiến được thành lập năm 1947 với nhiệm vụ chính là phối hợp với bộ đội Lào đánh tiêu hao lực lượng địch, bảo vệ biên giới. Lực lượng chính của binh đoàn là tầng lớp thanh niên, học sinh Hà thành, Quang Dũng từng vinh dự được đứng trong hàng ngũ của binh đoàn ấy, trong thời gian công tác và hoạt động trong binh đoàn Tây Tiến, Quang Dũng từng giữ chức Đại đội trưởng. Tuy nhiên, đến cuối năm 1948, Quang Dũng nhận được lệnh chuyển sang đơn vị khác, tại Phù Lưu Chanh, trong cảm xúc nghẹn ngào, lưu luyến của giây phút chia li, Quang Dũng đã viết bài thơ Tây Tiến để ghi lại những cảm xúc thiêng liêng, những kỉ niệm gắn bó đã có với những người đồng đội, với mảnh đất Tây nét hào hoa, lãng mạn của thanh niên, trí thức Hà Thành, Quang Dũng đã mang đến cho "Tây Tiến" một chất lính đầy mới lạ, cũng đầy xúc động. Đó là những người lính có lí tưởng, luôn lạc quan trong mọi hoàn cảnh, là những chàng thanh niên mang trong mình sức trẻ, tâm hồn lãng mạn, hào hoa. Qua Tây Tiến, độc giả đón nhận một hình tượng hoàn toàn mới lạ về người lính trong kháng chiến, đó không chỉ là những con người yêu nước, cháy bỏng một niềm tin, lí tưởng "quyết tử cho tổ quốc quyết sinh" mà còn mang nét hào hoa, lãng mạn của những con người yêu nước, yêu đề, nội dung tư tưởng của bài thơ Tây Tiến phần nào được gửi gắm ngay trong chính nhan đề giàu sức gợi "Tây Tiến". Tây Tiến không chỉ viết về nỗi nhớ đồng đội, nhớ mảnh đất Tây Bắc, thể hiện tấm lòng gắn bó sâu sắc của nhà thơ Quang Dũng với đơn vị, đồng đội, mảnh đất kháng chiến mà qua đó còn tái hiện, khắc họa đầy sống động chân dung lí tưởng, tâm hồn của những người lính trong kháng chiến chống Tây Tiến, nhà thơ Quang Dũng không chỉ thành công tái hiện không khí chiến đấu quyết liệt, gian khổ của cuộc kháng chiến chống Pháp mà trên cái nền dữ đội, khốc liệt của cuộc chiến ấy, Quang Dũng còn gợi cho người đọc sự xúc động mạnh mẽ về hình ảnh ngang tàng, hào hoa của người lính Tây Tiến xưa. Trên đây là chúng tôi đã giới thiệu đến các bạn Hoàn cảnh sáng tác và chủ đề bài thơ Tây Tiến, bên cạnh đó để tìm hiểu chi tiết về nội dung, nghệ thuật bài thơ Tây Tiến, các bạn có thể tham khảo thêm một số Bài văn hay lớp 12 có chủ đề liên quan như Bình giảng bài thơ Tây Tiến, Chất lãng mạn trong bài thơ Tây Tiến, Cảm nhận về hình tượng người lính Tây Tiến trong đoạn thơ sau Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc..., Hình ảnh miền Tây Tổ Quốc qua bài thơ Tây Tiến.
TÂY TIẾN Quang Dũng – Lưu ý Bài ôn tập Tây Tiến có nhiều phần, được đánh số thứ tự, để đọc các phần tiếp theo, các em vào link này KHÁI QUÁT VỀ TÁC GIẢ – TÁC PHẨM Tác giả Quang Dũng là một nghệ sỹ đa tài làm thơ, vẽ tranh, soạn nhạc, viết văn… nhưng hơn hết ông vẫn là một nhà thơ xuất sắc của thi ca Việt Nam hiện đại, một nhà thơ trưởng thành từ cuộc kháng chiến chống Pháp, một hồn thơ phóng khoáng và tâm huyết, tinh tế và lãng mạn. Tác phẩm Hoàn cảnh sáng tác Đoàn quân Tây Tiến + Tây Tiến là một đơn vị quân đội được thành lập năm 1947 có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào bảo vệ biên giới Việt – Lào, đánh tiêu hao lực lượng của quân đội Pháp ở Thượng Lào và miền Tây Bắc bộ của Việt Nam. + Địa bàn đóng quân và hoạt động của Trung đoàn là một miền rừng núi rộng lớn và hiểm trở của biên giới Việt – Lào gồm các tỉnh Sơn La, Lai Châu, Hòa Bình, miền tây Thanh Hóa và Sầm Nứa. + Sau một thời gian hoạt động, đoàn quân Tây Tiến trở về Hòa Bình, thành lập trung đoàn 52. Chiến sỹ Tây Tiến + Chiến sỹ Tây Tiến phần đông là học sinh thanh niên Hà Nội nên tâm hồn mang đậm nét hào hoa lãng mạn. + Bài thơ được viết trong thời kỳ đầu kháng chiến chống Pháp, đời sống bộ đội gặp rất nhiều khó khăn, đặc biệt đơn vị Tây Tiến chiến đấu trong hoàn cảnh hết sức gian khổ, vô cùng thiếu thốn về vật chất, bệnh sốt rét hoành hành dữ dội. Tuy nhiên họ vẫn sống rất lạc quan và chiến đấu rất dũng cảm với tinh thần “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” Quang Dũng vị trí tác giả trong hoàn cảnh + Năm 1947, Quang Dũng là đại đội trưởng trong trung đoàn Tây Tiến. Tới cuối 1948, ông được lệnh chuyển sang đơn vị khác. Một thời gian sau, khi đang ở Phù Lưu Chanh, một làng thuộc tỉnh Hà Đông, nhớ đơn vị cũ, Quang Dũng đã viết bài thơ “Nhớ Tây Tiến”. + Năm 1957, khi in lại trong tập “Mây đầu ô”, tác giả đổi nhan đề bài thơ thành “Tây Tiến” Hoàn cảnh sáng tác cho thấy rõ hơn nỗi nhớ da diết của nhà thơ với đơn vị cũ và mảnh đất miền Tây đầy kỷ niệm, nỗi nhớ đã trở thành cảm xúc trữ tình xuyên suốt bài thơ, đồng thời giúp người đọc hiểu rõ hơn vẻ đẹp hòa hoa, hào hùng của chiến sỹ Tây Tiến, hiểu được bút pháp hiện thực và cảm hứng lãng mạn – những yếu tố làm nên chất bi tráng rất đặc biệt cho bài thơ. Mạch cảm xúc Với sự kết hợp bút pháp hiện thực và cảm hứng lãng mạn, bài thơ đã trở thành khúc ca bi tráng phản ánh chân thực cuộc sống, chiến đấu gian khổ, sự hy sinh anh dũng và vẻ đẹp hào hoa, hào hùng của người chiến sỹ Tây Tiến. Cảm hứng lãng mạn thường tô đậm cái “tôi” tràn đầy cảm xúc, tô đậm sự phi thường, dữ dội, những vẻ đẹp thơ mộng, tuyệt mỹ, thường lý tưởng hóa, thi vị hóa hiện thực. Cảm hứng lãng mạn luôn sử dụng bút pháp đối lập để tạo ra những hình tượng tương phản, đem đến những ấn tượng sâu đậm cho người đọc. Cảm hứng bi tráng sự kết hợp giữa cảm hứng lãng mạn và bút pháp hiện thực đã tạo ra chất bi tráng rất đặc biệt cho bài thơ, đem đến những màu sắc và âm hưởng mạnh mẽ, hào hùng cho sự hy sinh, mất mát của người chiến sỹ Tây Tiến. Bố cục Nỗi nhớ dựng kỉ niệm thành bức tranh Tây Bắc hùng vĩ, hiểm trở nhưng cũng rất đỗi thơ mộng và trữ tình 14 câu đầu Cảnh liên hoan đêm lửa trại và mây trời, sông nước Tây Bắc Vẻ đẹp bi tráng của người lính Tây Tiến Lời hẹn ước. Tây Tiến là bài thơ tiêu biểu cho đời thơ của Quang Dũng, trong đó thể hiện tập trung những nét đặc sắc nhất trong phong cách nghệ thuật của nhà thơ và cũng là một trong những bài thơ hay nhất trong số những bài viết về đề tài người lính thời kỳ kháng chiến chống Pháp. TÌM HIỂU VĂN BẢN Nỗi nhớ về chặng đường hành quân gian lao vất vả của chiến sỹ Tây Tiến qua vùng núi rừng miền Tây Hai câu đầu Khúc dạo đầu của nỗi nhớ nhung Câu thơ đầu chia thành hai vế trong nhịp ngắt 4/3 “Sông Mã xa rồi, Tây Tiến ơi!” + Sông Mã là dòng sông chảy dọc theo địa bàn biên giới Việt – Lào thuộc tỉnh Mộc Châu, Sầm Nưa, Mai Châu, Quan Hóa… Đây là dòng sông nhiều ghềnh thác, đổ dốc dữ dội, một mình băng băng giữa núi rừng hùng vĩ, hai bên bờ sông còn rải rác mồ chiến sỹ Tây Tiến. Vì thế, Sông Mã vừa là một cảnh sắc thiên nhiên hùng vĩ, vừa là hình ảnh của vùng đất miền Tây. Sông Mã còn là một dòng sông gắn liền với chặng đường hành quân của trung đoàn, từng chứng kiến và chia sẻ những buồn vui, những mất mát hy sinh, từng “gầm lên khúc độc hành” tiễn đưa tử sỹ. Sông Mã là một hình ảnh thiên nhiên miền Tây đựng đầy kỷ niệm về trung đoàn Tây Tiến. Hành hương về quá khứ, Quang Dũng đã nhắc đến Sông Mã như một biểu tượng đầu tiên của nỗi nhớ nhung. + Bài thơ được viết khi Quang Dũng đang ở Phù Lưu Chanh, xa trung đoàn, xa đồng đội, xa núi rừng miền Tây và dòng sông Mã thân yêu. Nhịp 4/3 với dấu ngắt giữa dòng tạo cảm giác như có một phút ngừng lặng để cảm nhận sự trống trải mênh mông trong thực tại bởi “SôngMã xa rồi”, để rồi sau đó hiện tại mờ đi, nỗi nhớ ùa vào trong tiếng gọi tha thiết hướng về quá khứ “Tây Tiến ơi!”. Tiếng gọi ấy không dừng lại trong câu 1 mà như được ngân nga, nối tiếp trong những vần “ơi” của từ láy “chơi vơi” ở câu 2 – phép điệp vần tinh tế khiến tiếng gọi như âm vang, đập vào vách đá, dội lại lòng người, da diết, bâng khuâng. Câu sau Sau tiếng gọi ấy, nỗi nhớ ào ạt, trào dâng trong câu thơ tiếp theo “Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi ” + Từ “nhớ” điệp lại ở đầu hai vế câu diễn tả nỗi nhớ da diết, ám ảnh, không thể nguôi ngoai. + Vế đầu của câu thơ xác định đối tượng của nỗi nhớ “nhớ về rừng núi” – đó là không gian mênh mông của miền Tây với những địa danh như Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông., những địa danh vừa gợi lên kỷ niệm về con đường hành quân gian truân, vất vả, vừa gây ấn tượng mạnh mẽ về miền đất heo hút, hoang sơ; và vì thế nỗi nhớ không chỉ dừng lại ở rừng núi, nỗi nhớ còn hướng tới những năm tháng quá khứ đầy kỷ niệm và những người đồng đội thân yêu, nay kẻ còn, người mất. + Vế sau câu thơ dành miêu tả trạng thái của nỗi nhớ. “Chơi vơi” là từ láy vần, gợi độ cao phiêu du, bay bổng, rất phù hợp để miêu tả nỗi nhớ nhung về miền núi cao. Hơn nữa, từ láy “chơi vơi” gợi cảm giác về một nỗi nhớ vô hình, vô lượng, không thể đo đếm, một nỗi nhớ da diết, mơ hồ, đầy ám ảnh, một nỗi nhớ lơ lửng, ăm ắp, không nguôi. Hai câu thơ đầu đã thể hiện cảm hứng chủ đạo của cả bài thơ, đó là nỗi nhớ tha thiết hướng về những kỷ niệm không thể nào quên trong quá khứ với miền Tây và trung đoàn Tây Tiến. Mười hai câu sau Nỗi nhớ chủ yếu hướng về vùng đất miền Tây qua chặng đường hành quân gian nan vất vả của trung đoàn Tây Tiến. Thông qua những kỷ niệm về thiên nhiên và con người, Quang Dũng khắc họa vẻ đẹp hào hoa, hào hùng của người chiến sỹ Tây Tiên. Nỗi nhớ về thiên nhiên miền Tây Thông qua những nét phác tài hoa, vừa hiện thực, vừa thấm đẫm chát lãng mạn, Quang Dũng đã làm hiện lên bức tranh thiên nhiên miền tây heo hút, hiểm trở nhưng cũng hùng vĩ, thơ mộng, biết bao kỳ thú. Sương Nét đặc sắc đầu tiên về thiên nhiên miền Tây qua ký ức của Quang Dũng chính là màu sương rừng mờ ảo. Sương phủ dày ở Sài Khao, sương bồng bềnh ở Mường Lát, nhưng đó không chỉ là màn sương của thiên nhiên mà còn là màn sương mờ của kỷ niệm, của nỗi nhớ thương “Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi Mường Lát hoa về trong đêm hơi” + Bút pháp hiện thực trong câu trên đã mô tả một đoàn quân dãi dầu, mệt mỏi, thấp thoáng ẩn hiện trong sương. Nhịp ngắt 4/3 khiến trọng tâm câu thơ rơi vào từ “lấp” ở cuối vế đầu. Với việc này, nhà thơ đã cho thấy màn sương rừng miền Tây mênh mông, dày đặc, che kín cả một đoàn quân, trùm phủ, khuất mờ rừng núi, khiến con đường hành quân của các chiến sỹ thêm vất vả, gian nan. + Với câu sau, hiện thực khắc nghiệt đã được thi vị hóa bởi cảm hứng lãng mạn Đêm sương thành “đêm hơi” bồng bềnh, những ngọn đuốc soi đường di chuyển dọc theo hàng quân được nhìn như những đóa hoa chập chờn, lung linh, huyền hoặc. Những thanh bằng nhẹ bẫng trong câu thơ càng làm đậm thêm sắc hư ảo của màu sương rừng. Sự khắc nghiệt của thiên nhiên đã được cảm nhận một cách thi vị bởi những tâm hồn lãng mạn, hào hoa. Dốc núi Nhắc đến miền Tây không thể nào quên sự hiểm trở và hùng vĩ vô cùng của dốc núi. Đoạn thơ mô tả dốc núi miền Tây đã làm hiện ra sắc nét khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ và hiểm trở ấy, qua đó cũng đồng thời làm hiện ra cuộc hành quân gian lao và vất vả, ý chí bất khuất kiên cường, tinh thần lạc quan, yêu đời của người lính Tây Tiến. Đọc đoạn thơ mô tả dốc núi của Quang Dũng, người đọc có thể nhớ tới con đường khó khăn lên xứ Thục của Lý Bạch xưa “Thục đạo nan! Thục đạo nan Nan ưhướng thiên thanh” Nghĩa là Đường lên xứ Thục khó thay Khó như đi lên trời xanh + Câu thơ đầu trực tiếp miêu tả dốc núi miền Tây “Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm” Câu thơ ngắt nhịp 4/3, từ “dốc” điệp lại ở đầu 2 vế câu thể hiện sự trùng điệp, chồng chất, nối tiếp như tới vô tận của những con dốc, cũng phần nào gợi ra những nỗi nhọc nhằn của người lính trên đường hành quân con dốc này chưa qua, con dốc khác lại đợi sẵn, núi rừng miền Tây như muốn thử thách nghị lực của các anh. Sự hiểm trở của dốc núi miền Tây đã hiện ra trong ý nghĩa tạo hình của biểu cảm của các từ láy “khúc khuỷu”, “thăm thẳm”. Từ láy “khúc khuỷu” miêu tả sự gồ ghề, gập ghềnh ngay dưới chân chiến sỹ, còn từ láy “thăm thẳm” lại gợi độ cao, độ xa vời vợi khi đưa mắt nhìn tiếp con đường hành quân vẫn cheo leo ngút ngàn như không cùng, con đường lên miền Tây quả là “nan ư hướng thiên thanh’ Lý Bạch. Sự hiểm trở ấy còn được hiện ra trong nhạc điệu bởi sự phối hợp dày đặc năm thanh trắc ghập ghềnh trong một câu bảy chữ + Câu thơ thứ hai Dốc núi miền tây còn được gợi tả gián tiếp trong câu thơ sau với việc tô đậm ấn tượng về độ cao chót vót “Heo hút cồn mây súng ngửi trời” Từ láy “heo hút” được đảo lên đầu cao nhấn mạnh sự hoang sơ xa vắng, thăm thẳm như vô tận. “Cồn mây’ là một ẩn dụ đặc sắc cho thấy mây núi miền Tây bộn bề, chồng chất, dựng lên thành cồn, thành dốc. Từ đó câu thơ dán tiếp cho thấy dốc núi cao đến mức con đường như lẫn vào mây, bao phủ đường núi, mây mờ mịt trập trùng, mây khiến con đường hành quân của chiến sỹ càng cheo leo, hiểm trở, hoang vu… Vế sau của câu thơ cũng tiếp tục gợi tả độ cao của dốc núi khi người lính đi trong mây, mũi súng như chạm tới đỉnh trời. Đây là một cảm nhận chính xác của nhà thơ về địa hình heo hút, hiểm trở trên đường hành quân của chiến sỹ. Sự hiểm trở ấy đã làm tăng thêm những gian truân vất vả cho người lính. Nhưng bằng cách nói tếu táo, hóm hỉnh, đầy chất lính trong hình ảnh “súng ngửi trời” Quang Dũng đã cho thấy tâm hồn trẻ trung của những người lính phong trần, coi thường mọi gian lao vất vả. Vũ Quần Phương còn cho rằng hình ảnh “súng ngửi trời” là “Trung tâm hùng tráng của bức tranh hiểm trở, bởi ở chỗ cao ấy có con người”. Và do vậy, câu thơ không chỉ gợi sự hiểm trở của dốc núi, sự tươi trẻ lạc quan của chiến sỹ Tây Tiến, nó còn khiến các anh hiện ra trong dáng vẻ ngang tàng kiêu dũng của những chàng trai chinh phục độ cao. + Câu thơ thứ ba Dốc núi tiếp tục được miêu tả trong một nét vẻ sắc sảo, gân guốc “Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống” Điệp ngữ “ngàn thước” là một ước lệ nghệ thuật có tính định lượng đã khắc họa vẻ đẹp kỳ vĩ, chênh vênh, kỹ thú của núi rừng miền Tây. Yếu tố tương đồng của điệp ngữ “ ngàn thước” cộng chất tương phản của các động từ “ lên ”, “xuống” trong hai vế câu đã tạo ra một nét gập đột ngột, dữ dội đặc tả độ cao của dốc, độ sâu của vực, bên này đường lên núi dựng đứng vút cao, bên kia vực đổ xuống hun hút hiểm trở Trong 3 câu thơ đặc biệt giàu chất tạo hình, dốc núi miền Tây đã được miêu tả một cách trực tiếp hoặc gián tiếp nhưng đều khắc họa được đồng thời cả sự hiểm trở lẫn vẻ đẹp ký thú, thông qua bức tranh thiên nhiên có thể thấy những vẻ đẹp trong tâm hồn người lính Tây Tiến Họ lạc quan, mạnh mẽ, coi thường mọi gian truân, những khó khăn thử thách của thiên nhiên chỉ làm rõ hơn ý chí, sức mạnh tâm hồn trẻ trung và tư chất nghệ sỹ của họ Mưa rừng Sau những câu thơ hun hút nhọc nhằn miêu tả dốc núi, câu thơ tả mưa miên man trong 7 thanh bằng với rất nhiều âm thanh mở, câu thơ đã gợi tả một không gian mênh mông, dàn trải, nhạt nhòa trong mưa “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi ” + Hình ảnh “mưa xa khơi” có thể coi là một ẩn dụ cho thấy cả thung lũng mờ mịt như loãng tan trong biển mưa, không gian bỗng như mênh mông, xa vời hơn. Sau những chặng đường hành quân gian khổ, người lính như đang dừng chân đâu đó đưa mắt nhìn cảnh núi rừng chìm trong mưa. Ánh mắt những người lính xa nhà bâng khuâng hướng tới những ngôi nhà bồng bênh thấp thoáng trong màn mưa hư ảo… Sắc thái phiếm chỉ khiến cụm từ “nhà ai” trở nên mơ hồ, xa xăm; sắc thái nghi vấn gợi nỗi trăn trở trong lòng người. Cả câu thơ chỉ có duy nhất tiếng “nhà” mang thanh huyền như một thoáng trầm lắng suy tư để rồi sau đó tất cả là những thanh không chơi vơi trong nỗi nhớ. + Giữa mưa rừng buốt lạnh, giữa núi rừng mênh mông, hình ảnh những ngôi nhà đã gợi cảm giác ấm áp, nhớ nhung, dễ làm xao xuyến lòng người xa quê. Núi rừng thâm u Núi rừng miền Tây được miêu tả trong những nét vẽ đầy ấn tượng “Chiều chiều oai linh thác gầm thét Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người” + “Thác gầm thét” và “cọp trêu người” là hai hình ảnh nhân hóa thể hiện sự dữ dội, hoang sơ đầy bí hiểm của núi rừng miền Tây. Bút pháp đối lập của cảm hứng lãng mạn được sử dụng trong phép đối thanh rất tinh tế ở hai câu thơ này nếu câu trên có “thác”, “thét” mang thanh trắc ở âm vực cao thì âm dưới là “hịch”, “cọp” cũng mang thanh trắc nhưng thuộc âm vực thấp. Những dấu sắc trong câu trên như gợi âm thanh tiếng thác nước man dại ở vòm cao thăm thẳm, những dấu nặng liên tiếp trong câu dưới lại như mô phỏng bước chân nặng nề của thú dữ, gợi cái thâm u, bí ẩn đầy đe dọa ở vòm tối thấp của núi rừng. + “Chiều chiều” và “đêm đêm” là những trạng ngữ chỉ thời gian lặp lại những miên viễn, vĩnh hằng, những sức mạnh thiên nhiên khủng khiếp đã ngự trị nơi núi rừng miền Tây không phải một chiều, một đêm mà là chiều chiều, đêm đêm – sự ngự trị muôn đời! Nhưng cũng chính điều này lại càng khiến chân dung người chiến sỹ Tây Tiến thêm hào hùng, mạnh mẽ. Họ đã hành quân qua những vùng đất hoang sơ, dữ dội, vắng bóng con người, họ đã vượt qua tất cả những gian truân vất vả bằng ý chí kiên cường và lòng dũng cảm Nỗi nhớ về người chiến sỹ Tây Tiến trong chăng đường hành quân Sự vất vả gian truân cũng như vẻ đẹp trong tâm hồn người lính đã ít nhiều thể hiện trong những câu thơ miêu tả cảnh thiên nhiên miền Tây và hành trình qua miền Tây; Ngoài ra còn có những câu thơ trực tiếp miêu tả hình ảnh người lính cũng như những kỷ niệm của họ trên đường hành quân Trước hết là một ký ức sâu đậm của Quang Dũng về hình ảnh một người chiến sỹ Tây Tiến trên đường hành quân “Anh bạn dãi dầu không bước nữa Gục lên súng mũ bỏ quên đời” + Từ láy “dãi dầu” đã thể hiện tất cả những vất vả nhọc nhằn của các anh khi hành quân qua miền Tây, khi phải vượt qua những núi cao vực thẳm, những thác ghềnh dữ dội, những sương gió nắng mưa. + Hai câu thơ tựa như một bức ký họa đầy ấn tượng về người lính. Có thể hiểu đây là hình ảnh người lính phong trần buông mình vào giấc ngủ hiếm hoi trong phút dừng chân, một giấc ngủ mệt nhọc, vô tư, trẻ trung; Cũng có thể hiểu đây là câu thơ miêu tả thực tế đau xót trên chiến trường khi người lính kiệt sức, gục ngã, không thể bước tiếp cùng đồng đội. Cũng có thể thấy người lính quỵ xuống khi đang đi giữa hàng quân nhưng “súng mu” vẫn bên mình như vậy là dù không vượt qua được khó khăn nhưng anh cũng không thoái lui, chùn bước, không đầu hàng khó khăn, không rời bỏ đội ngũ. Và nhất là hiện thực khắc nghiệt của chiến tranh đã được Quang Dũng biểu hiện bằng cách nói thật lãng mạn để qua đó làm hiện lên không phải khó khăn mà là tinh thần dũng cảm vượt lên khó khăn, đó chính là vẻ đẹp hào hùng của người chiến binh Tây Tiến. Con đường hành quân của chiến sỹ Tây Tiến không chỉ có gian truân vất vả mà còn có cả những kỷ niệm ngọt ngào, thắm thiết ân tình. Miền Tây không chỉ có núi cao, rừng sâu., miền Tây còn còn có những bản làng nên thơ với khói lam chiều ấm áp quện bên sườn núi, có hương thơm quyến rũ của xôi nếp hương và nhất là có những sơn nữ tình tứ và xinh đẹp “Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói Mai Châu mùa em thơm nếp xôi” + Hai câu thơ là những cụm từ ngữ đã được xóa đi các yếu tố kết nối khiến cho nó mang dáng dấp như một bức tranh ấn tượng, một bức tranh của nghệ thuật sắp đặt, trong đó ghi lại tổng hợp những ấn tượng của cả thị giác, thính giác, khứu giác và thậm chí cả xúc giác. + Mở đầu bằng cụm từ “nhớ ôi.”, câu thơ đã bộc lộ cảm xúc nhớ nhung dâng trào mãnh liệt sau những chặng đường hành quân giữa mưa rừng buốt lạnh, giữa những tiếng chân thú rình rập đầy đe dọa, bát cơm mới thơm ngào ngạt cùng làn khói bếp mỏng manh vương vấn quấn quýt phút dừng chân ở Mai Châu, một bản làng miền Tây, tất cả đã đem đến cảm giác thanh bình thật hiếm hoi, quý giá trong chiến tranh. Giống như âm thanh tiếng gà trưa trên đường hành quân của anh chiến sỹ trong bài thơ Xuân Quỳnh, hương thơm bát xôi nếp đầu mùa ở Mai Châu sẽ mãi là một kỷ niệm khó quên về tình cảm quân dân ấm áp trong cả đời người lính chiến. + Câu “Mai Châu mùa em thơm nếp xôi” gợi ra nhiều cách hiểu. Có thể hiểu các chiến sỹ Tây Tiến dừng chân ở Mai Châu giữa mùa lúa chín, đón nhận bát xôi ngào ngạt hương nếp đầu mùa và tình em thơm thảo. Cũng có thể hiểu theo một nét thật lãng mạn của cụm từ “mùa em”. Người ta thường chỉ nói “mùa hod”, “mùa quả”. Đó là thời điểm căng tràn, sung mãn, đầy ắp sắc hương của hoa trái. Quang Dũng đã tạo ra một nghĩa mới mẻ, táo bạo và thật đa tình về mùa em khiến cho Mai Châu không chỉ là một địa danh với kỷ niệm thơm thảo của hương nếp đầu mùa, Mai Châu còn gợi nhớ hình ảnh về những cô gái miền Tây duyên dáng. Có người lính nào quên được giây phút dừng chân ở Mai Châu, khi nồng ấm xung quanh các anh là dân làng, là các sơn nữ sóng sánh ánh mắt, rạng rỡ nụ cười, nồng nàn hương sắc. Những thanh bằng trong câu thơ đã gợi tả tinh tế cảm giác bồng bênh, xao xuyến tới đê mê của những chàng trai Hà thành hòa hoa và lãng mạn. Với sự kết hợp uyển chuyển giữa họa và nhạc, giữa bút pháp hiện thực và cảm hứng lãng mạn, 14 câu thơ trong bài Tây Tiến của Quang Dũng đã tái hiện sinh động và biểu cảm về một vùng đất hiểm trở, khắc nghiệt mà thơ mộng kỳ thú, gắn liền với chặng đường hành quân của người chiến sỹ Tây Tiến qua miền Tây. Từ những kỷ niệm hiện lên trong nỗi nhớ da diết về quá khứ, Quang Dũng đã thể hiện chân thực bức chân dung của những người lính Tây Tiến kiêu dũng và hào hoa, góp phần làm đậm thêm cảm hứng chủ đạo của bài thơ Tây Tiến. Tài liệu sưu tầm tây tiến
Đề thi Tây Tiến theo hướng mới năm 2023 sẽ giúp các bạn tiếp cận gần hơn với dạng đề thi theo hướng mới mà bộ đã đưa ra. Các bạn nhớ chú ý các làm và bài tham khảo nha!Đề bài Trong bài thơ “Tây Tiến”, nhà thơ Quang Dũng đã hai lần nhắc đến sự hi sinh của người lính Tây Tiến “Anh bạn dãi dầu không bước nữaGục lên súng mũ bỏ quên đời!”Và“Rải rác biên cương mồ viễn xứChiến trường đi chẳng tiếc đời xanhÁo bào thay chiếu anh về đấtSông Mã gầm lên khúc độc hành”Trích Tây Tiến – Quang Dũng, Ngữ văn 12, Tập một, NXBGD, 2016 Từ đó liên hệ ngắn gọn với hình tượng nhân vật Tnú qua đoạn văn miêu tả cảnh Tnú bị bọn giặc tra tấn, đốt đôi bàn tay bằng giẻ tẩm nhựa cây xà nu trong truyện ngắn “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành. Theo anh chị, tinh thần bi tráng và đặc trưng của chủ nghĩa anh hùng Cách mạng được thể hiện như thế nào qua “Tây Tiến” và “Rừng xà nu”?Bài Làm Đề thi Tây Tiến theo hướng mới năm 2023 “Cuộc tái sinh màu nhiệm” mang hơi thở của thời đại được các văn nghệ sĩ nhắc đến bằng niềm tự hào, lòng yêu nước và tinh thần dân tộc trong những sáng tác giai đoạn 1945 – 1975. Hình tượng anh bộ đội cụ Hồ thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp là biểu tượng cho sức mạnh, vẻ đẹp kiên trung, hào sảng, những người quả cảm đang dấn thân vào “cuộc tái sinh” đầy máu thêm Đề thi Đất Nước theo hướng mới năm 2023Thơ ca thời kháng Pháp tập trung xây dựng hình tượng người lính Cách mạng với những phẩm chất đẹp đẽ, đại diện cho lí tưởng, cho tinh hóa khí phách của dân tộc Việt Nam trong những ngày sục sôi đánh giặc. Họ là ai? Đó là “Những chàng trai chưa trắng nợ anh hùng” trong thơ Chính Hữu; là “Anh Vệ quốc quân ơi – Sao mà yêu anh thế?” trong thơ Tố Hữu, là “So anh máu nhuộm chiến trường thắm chi?” trong thơ Hoàng Trung Thông… và đâu đó vẫn còn sừng sững bức tượng đài người lính Tây Tiến trong bài thơ cùng tên sáng tác năm 1948 của Quang Dũng cũng gây xúc động, nao lòngAnh bạn dãi dầu không bước nữaGục lên súng mũ bỏ quên đờiVàRải rác biên cương mồ viễn xứChiến trường đi chẳng tiếc đời xanhÁo bào thay chiếu anh về đấtSông Mã gầm lên khúc độc hành…Quang Dũng – một thanh niên trí thức hào hoa, lãng mạn, một người hòa nhập rất nhanh, rất mãnh liệt vào đời sống Cách mạng và Kháng chiến, tình nguyện dấn thân vào Trung đoàn 52 – Tây Tiến, sống và chiến đấu trong điều kiện vô cùng gian khổ, khắc nghiệt. “Tây Tiến” trước hết mang cảm xúc của “cái tôi” cá cá nhân ấy lại hòa nhập vào dòng người trên những nẻo đường ra trận. Bài thơ mang đậm hào khí của cả một lớp người thời đại, mang tính độc đáo của một tâm trạng riêng, vừa mang cảm xúc chung của những con người trong hoàn cảnh mới. Tất cả đã tạo nên một “Tây Tiến” riêng biệt, không thể lặp lại hay thay thế trong nền thơ kháng tượng người lính trong bài thơ “Tây Tiến” gắn chặt với một sự kiện lịch sử trọng đại của dân tộc cuộc hành binh Tây Tiến. Không gian nghệ thuật là núi rừng miền Tây Bắc Bộ, với những địa danh xác thực như Mường Lát, Sài Khao, Mai Châu, Pha Luông, Châu Mộc – một cảnh trí đậm sắc thái thiên nhiên nơi lam sơn chướng khí nghìn trùng. Trên cái nền cảnh ấy, hình tượng người lính xuất hiện thật ấn tượngAnh bạn dãi dầu không bước nữaGục lên súng mũ bỏ quên đờiVới hai dòng thơ, Quang Dũng đã khắc họa dáng vẻ oai phong, lẫm liệt, đầy hào khí. Tinh thần chinh chiến kiên dũng, dám xả thân, thái độ ngang tàng ngạo nghễ xem cái chết nhẹ tựa lông hồng cũng được nhà thơ ghi lại bằng ngôn ngữ gợi hình ảnh, giàu cảm xúc, giọng điệu chùng xuống và man mác cung đường chiến đấu quanh co, khúc khủy “Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống”, đã bao lần người lính Tây Tiến dốc cạn sức bình sinh, mệt mỏi quá đành thiếp đi trên lộ trình Tây Bắc. Hai tiếng “dãi dầu” gợi lại sự cực nhọc, vất vả của người lính. Đường Tây Tiến cheo leo, tiết trời khắc nghiệt, súng đạn gần kề, người lính phải trải qua trăm ngàn gian khó. Sự mệt nhọc, kiệt sức là lẽ đương nhiên!Liên quan Phân tích sông hương qua hai đoạn trích sauTuy nhiên, giá trị của hai câu thơ trên sẽ giảm đi phần nào nếu ta chỉ dừng lại ở lớp nghĩa đó. Với biện pháp nói giảm “bỏ quên đời”, giọng thơ xót xa, cay đắng, Quang Dũng đã hé lộ cho ta khoảnh khắc thiêng liêng khi người lính Tây Tiến vĩnh biệt cuộc đời, bỏ lại phía trước hành trình Tây Tiến nhọc nhằn còn đang xôn xao chờ đợi. Nhà thơ không né tránh hiện thực khốc liệt của chiến tranh mà nhìn rất thẳng, trực diện, đây là nét mới của thơ ca Việt Nam thời kì kháng về sự hi sinh, Quang Dũng không nhấn mạnh sự đau đớn, uất ức của cái chết đến rụng rã tâm hồn mà xoa dịu cảm giác đau thương bi lụy, làm tăng tính chất thanh thản của cuộc hi sinh vì nước, vì lí tưởng cao đẹp của một thời đại bất khuất hào khéo léo khi Quang Dũng đã đặt hình tượng người lính Tây Tiến vào trong miền không gian đầy không khí bi hùng xưa cổ, với chiến trường là miền viễn xứ âm u lạnh lẽo. Ở đoạn thơ tiếp theo, bằng tất cả tấm lòng của người từng chung sức chung lòng với đồng đội trong cuộc trường chinh gian khổ, Quang Dũng đã tưởng nhớ về sự hi sinh của đồng đội bằng những câu thơ đậm chất bi trángRải rác biên cương mồ viễn xứChiến trường đi chẳng tiếc đời xanhÁo bào thay chiếu anh về đấtSông Mã gầm lên khúc độc hành…Ở dòng thơ “Rải rác biên cương mồ viễn xứ”, với những từ Hán Việt gợi không gian cổ kính “biên cương”, “viễn xứ”, nhà thơ đã nhấn mạnh sự lạnh lẽo, đơn độc của những nấm mồ vô danh, không chút khói hương. Đến đây ta thấy rằng, cái chết dẫu là sự hi sinh vì Tổ quốc cũng không thể không gợi lên cảm xúc bi thương, đau đớn, day dứt lòng người. Hai câu thơ gọi nhớ đến những dòng vĩ thanh nghẹn ngàotrong bài “Núi đôi” của Vũ CaoAi viết tên em thành liệt sĩBên những hàng bia trắng giữa đồngNhớ nhau anh gọi em đồng chíMột tấm lòng trong vạn tấm lòngMột bên là “Rải rác biên cương mồ viễn xứ”, một bên là “những hàng bia trắng giữa đồng”, hiện thực đau xót được hai thi sĩ nhắc đến bằng những hình ảnh đọc thoáng qua thôi nhưng cảm giác quặn lòng. Là “bi” nhưng không “lụy”, “bi” mà vẫn rắn rỏi, gân guốc, vẫn giữ vững sức mạnh anh hùng Cách mạng Việt Nam bởi nhà thơ đã nâng đỡ mọi thứ bằng đôi cánh lãng mạn, hướng về tương lai tương bi mờ hẳn bởi lí tưởng quên mình vì Tổ quốc Việt Nam, người lính hiến trọn tuổi thanh xuân của mình bởi trong anh có bầu máu nóng đầy nhiệt huyết. Đó là lí tưởng cao cả của một thời đại “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” mà trên những ngả đường ra trận thời ấy vẫn vang vang bài ca nồng nhiệt, say mê “Đoàn Vệ quốc quân một lần ra đi/ Nào có mong chi đâu ngày trở về/ Ra đi ra đi bảo tồn sông núi/ Ra đi ra đi thà chết không lùi”. Quang Dũng viếtChiến trường đi chẳng tiếc đời xanhGiảm đi từ Hán Việt, đây là giọng điệu của tuổi trẻ thời chống Pháp lên đường đuổi giặc, khí phách của thời đại, thanh niên Việt Nam không chỉ tự nguyện dấn thân mà còn dám vượt lên cái chết. Họ sẵn sàng dâng hiến cả sự sống, cả tính mạng của mình vì lí tưởng cứu thơ “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh” là minh chứng cho quan niệm “Văn nghệ phụng sự kháng chiến” Nguyễn Đình Thi, văn nghệ góp tiếng nói cổ vũ, động viên người trẻ Việt Nam ra đi chiến đấu vì lí tưởng của tuổi trẻ. Chính vì vậy mà người nghệ sĩ cũng là người chiến sĩ trên mặt trận văn hóa, tư tưởng thời bấy cùng, Quang Dũng tưởng nhớ về giây phút vĩnh biệt đồng đội bằng hai câu thơ mang dáng dấp cổ điểnÁo bào thay chiếu anh về đấtSông Mã gầm lên khúc độc hànhHình ảnh “Áo bào thay chiếu” là hình ảnh tả thực. Sự thật người lính ngã xuống, không manh chiếu quấn thân, phải “về đất” với tấm áo lính đơn sơ, qua ngòi bút lãng mạn của Quang Dũng lại trở thành “áo bào” trang trọng. Vì thế, cái chết giữa núi rừng mịt mù san giả trở nên thiêng liêng hơn bao giờ Dũng viết “anh về đất” – một cách nói giảm tránh nhằm làm vơi nỗi đau về sự hi sinh, tăng tính chất thanh thản, hào hùng cho người lính. Nhà thơ thật khéo léo khi trước đó ông đã viết “bỏ quên đời”, và đến phút giây này lại là “anh về đất” nhằm linh thiêng hóa và bình thản hóa cuộc ra đi vì chính nghĩa của anh bộ đội cụ Hồ. Đã dấn thân ra đi thì chết đối với họ chẳng là gì cả. Chết chẳng qua chỉ là vùi thây vào lòng cát bụi, trở về với đất mẹ bao dung, có đất mẹ âu yếm, vỗ thêm Dàn ý so sánh hai chi tiết trong cùng một tác phẩmTiếng thét gào của dòng sông Mã ở câu thơ cuối như khúc tráng ca tiễn người lính trở về với đất. Sự mất mát lớn lao được thiên nhiên ngưỡng vọng, tiễn biệt. Chỉ với tiếng “gầm”, Quang Dũng đã thật sự “lên gân” nhằm dìu hồn người đọc bay bổng trong cảm hứng lãng mạn, vượt lên đau đớn, xót xa. Từ những hình ảnh này, hình tượng người lính Tây Tiến mang vẻ đẹp cổ điển, dáng dấp của các chiến sĩ thuở xưa ra đi vì nghĩa lớn với tinh thần “nhất khứ bất phục hoàn”, vừa mang hào khí thời đại kháng Pháp. Lịch sử đã đắp bồi cho các anh tình yêu nước, ý thức trách nhiệm với non sông. Nhà thơ Anh Ngọc đã từng nhận xét về bài thơ Tây Tiến chỉ với hai khái niệm “Kinh điển đến thế, hiện đại đến thế”. Rõ ràng, sự cổ điển và không khí hiện đại của cuộc hành binh máu lửa luôn sôi trào trong những vần thơ sóng đôi với cuộc đời người dịch Điện Biên Phủ thành công, dân tộc Việt Nam đã làm tròn bổn phận của mình, chiến đấu vì lí tưởng hòa bình và tương lai tươi sáng. Mười bảy năm sau đó, truyện ngắn “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành ra đời. Trong bối cảnh Mĩ ào ạt đổ quân xuống chiến trường miền Nam, ném bom khủng bố ác liệt, “Rừng xà nu” đã vẽ ra con đường chúng ta phải đi, nêu rõ chân lí của thời đại đánh Mỹ. Một lần nữa dân tộc ta, đất nước ta chìm trong khói lửa điêu linh. “Rừng xà nu” viết về những con người trong một bản làng xa xôi, heo hút – làng Xô Man. Bằng tình yêu nước thiết tha, mãnh liệt, họ đã chiến đấu bảo vệ bản làng, quê hương, bảo vệ màu xanh của những cánh rừng xà nu bất tận. Trong truyện nổi lên hình tượng Tnú. Đây là một nhân vật anh hùng nối tiếp những phẩm chất tốt đẹp thời kháng Pháp của người lính Tây Tiến, của Núp trong “Đất nước đứng lên” – Nguyên Ngọc. Tnú đã góp một nét mới cùng với tập thể anh hùng trong văn học thời chống Mỹ như Chị Sứ trong “Hòn Đất” Anh Đức, Việt trong “Những đứa con trong gia đình” Nguyễn Thi, anh hùng Nguyễn Văn Trỗi trong “Sống như Anh” Trần Đình Vân…Đọc thêm Đề thi Tây Tiến theo hướng mới năm 2023Đoạn miêu tả cảnh Tnú bị tra tấn có lẽ là đoạn văn vừa đớn đau, vừa hào hùng nhất – cao trào của tác phẩm mà Nguyễn Trung Thành đã dụng công xây dựng. Để làng Xô Man từ bỏ giấc mộng cầm giáo mác, bọn thằng Dục đã dùng giẻ tẩm nhựa cây xà nu đốt mười ngón tay Tnú. “Một ngón tay Tnú bốc cháy. Hai ngón, ba ngón[…] Mười ngón tay đã thành mười ngọn đuốc”, một “con cọp núi rừng” giờ đây bị hành hạ dữ dội, nỗi đau ấy có lẽ không gì xoa dịu được, nó tạo nên niềm căm phẫn như sóng ồ ạt khiến Tnú cắn chặt răng chịu đau, “không thèm kêu van”, không khuất phục trước quân thù. Đó cũng một ngọn lửa đốt cháy lòng hận thù của người làng Xô thét của Tnú “Giết”, tiếng cụ Mết ồ ồ “Chém! Chém hết”, một cuộc “đồng khởi” đã nổi dậy. Âm thanh hùng tráng của cuộc chiến đấu và vẻ đẹp của người anh hùng làng Xô Man đẹp và kì vĩ biết bao. Bị đốt mười đầu ngón tay là bi kịch đớn đau của cuộc đời Tnú. Nhưng nó cũng là “bản lề” để mở ra một cuộc đồng khởi oai hùng, dũng cảm, người làng Xô Man đã chính thức dùng bạo lực Cách mạng chống lại bạo lực phản Cách mạng, đi đến thắng lính Tây Tiến và người anh hùng Tnú đã “Lấy nỗi đau vô hình làm sức mạnh vô biên”, vượt qua mọi thử thách, hiểm nguy, đứng lên chiến đấu và chiến thắng, thể hiện sức mạnh thời đại của cộng đồng, dân tộc. Họ thật sự là những tấm gương anh hùng trong thời kì kháng chiến chống Pháp và chống đế quốc Mỹ xâm thần bi tráng và vẻ đẹp của chủ nghĩa Anh hùng Cách mạng được thể hiện cụ thể qua đoạn thơ trong bài “Tây Tiến” của Quang Dũng và đoạn Tnú bị tra tấn và cuộc đồng khởi trong “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành. Người lính Tây Tiến trải qua những gian lao tột cùng căn bệnh sốt rét, địa hình núi đồi hiểm trở, sự hi sinh nghẹn lòng, song họ vẫn mạnh mẽ can trường, vượt lên gian khổ bằng sự kiêu hùng, lẫm liệt. Tnú chịu đựng nỗi đau tận cùng đôi bàn tay Tnú là hiện thân của nỗi đau xác thân, cái chết của vợ con là nỗi đau của gia đình, sự hi sinh của anh Quyết, bà Nhan, anh Xút và những con người khác ở làng Xô Man dưới tay thằng Mỹ là nỗi đau của buôn làng. Ba mối thù hợp thành nguồn sức mạnh khiến Tnú đứng dậy chiến đấu, trả thù, bảo vệ buôn làng, giữ mãi màu xanh của những cánh rừng xà nu tít tắp. Chủ nghĩa anh hùng Ccách mạng Việt Nam được thể hiện rõ nét qua “Tây Tiến” của Quang Dũng và “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành. Hình tượng Tổ quốc từ trong máu lửa, trở mình “đứng dậy sáng lòa” Nguyễn Đình Thi, hình ảnh người chiến sĩ trên mặt trận vũ trang cầm súng, đánh giặc được ngợi ca bằng giọng thơ hào sảng, giọng văn hùng hồn. Hai tác giả đã thổi vào trong tác phẩm không khí thời đại làm bừng lên sức sống, làm sáng ngời phẩm chất đẹp đẽ của người lính vệ quốc.“Sắt lửa mặt trận đang hun đúc nên nền văn nghệ của chúng ta” Nguyễn Đình Thi, quả thế! Trải qua hơn nửa thế kỉ, đến nay bài thơ “Tây Tiến” vẫn còn đủ sức ngân vang trong tâm hồn người đọc. Hình tượng người lính thời kì kháng chiến chống Pháp bất tử cùng thời gian, lời thơ vẫn đủ sức trĩu nặng lòng người. Từ đó khơi dậy ý thức tuổi trẻ Việt Nam thời đại mới cần nhận thức được bổn phận của mình, dám đương đầu với thử thách, bản lĩnh, gan dạ, xông pha khi Tổ quốc Tiến biên cương mờ khói lủaQuân đi lớp lớp động cây rừngVà bài thơ ấy, con người ấyVẫn sống muôn đời với núi sôngGiang NamĐề thi Tây Tiến theo hướng mới năm 2023Originally posted 2020-02-07 092307.
Bài viết tổng hợp kiến thức cơ bản cần nhớ và những dạng đề thi liên quan đến bài thơ Tây Tiến- Quang Dũng. Mục lụcPhần 1 Những dạng đề thi về bài Tây TiếnMột số đề bài tham khảo Phần 2 Kiến thức cơ bản về bài Tây Tiến – Quang Dũng1. Quang Hoàn cảnh sáng tác bài thơ Tây Tiến của Quang Cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng4. Nội dung và nghệ thuật của bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng. Dạng 1 Cảm nhận về đoạn thơ , bài thơ Đề thi thường trích dẫn 1 hoặc 2 khổ thơ trong bài Tây Tiến và yêu cầu nêu cảm nhận. Rất ít khi cho phân tích cả bài. Dạng 2 Nghị luận ý kiến bàn về bài Tây Tiến- Quang Dũng Dạng 3 So sánh đoạn thơ trong bài Tây Tiến- Quang Dũng với đoạn thơ trong bài thơ khác có cùng chủ đề hoặc có điểm tương đồng về nội dung. Với bài Tây Tiến- Quang Dũng, đề thi có thể yêu cầu so sánh với Việt Bắc, Đất nước, hoặc đoạn thơ miêu tả hình tượng người lính ,… Dạng 4 Liên hệ thực tế. Ví dụ đề bài cho phân tích hình tượng người lính Tây Tiến , từ đó liên hệ tới hình ảnh người chiến sĩ đang ngày đêm bảo vệ biển đảo quê hương chẳng hạn,… hoặc liên hệ tới lí tưởng sống của thanh niên thời nay. Kiến thức trọng tâm Hình tượng người lính Tây Tiến , Bút pháp lãng mạn của Quang Dũng Một số đề bài tham khảo Đề 1 So sánh đoạn thơ trong bài Đất nước và Tây Tiến Cảm nhận của anh/ chị về hai đoạn thơ sau Rải rác biên cương mồ viễn xứ Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh Áo bào thay chiếu anh về đất Sông Mã gầm lên khúc độc hành Tây Tiến – Quang Dũng Có biết bao người con gái con trai Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi Họ đã sống và chết Giản dị và bình tâm Không ai nhớ mặt đặt tên Nhưng họ đã làm ra Đất Nước Đất Nước – Nguyễn Khoa Điềm Đáp án Đề2 Đề so sánh hai đoạn thơ trong bài Đây thôn Vĩ Dạ- Hàn Mặc Tử và đoạn thơ trong bài Tây Tiến – Quang Dũng. Cảm nhận của anh/chị về hai đoạn thơ sau Người đi Châu Mộc chiều sương ấy Có thấy hồn lau nẻo bến bờ Có nhớ dáng người trên độc mộc Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa Tây Tiến – Quang Dũng Gió theo lối gió mây đường mây Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay Thuyền ai đậu bến sông trăng đó Có chở trăng về kịp tối nay? Đây thôn Vĩ Dạ – Hàn Mặc Tử Hướng dẫn Đề 3 Phân tích đoạn 1 Tây Tiến , từ đó cho thấy bút pháp lãng mạn của Quang Dũng Đáp án Đề 4 Cảm nhận của em về hình tượng người lính Tây Tiến trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng Đáp án Đề 5 Cảm nhận về bức tranh thiên nhiên miền Tây Bắc qua khổ đầu bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng. Đáp án Đề 6 Cùng tái hiện vẻ đẹp của những đoàn quân ra trận mỗi nhà thơ lại có cách khám phá và thể hiện riêng Trong bài “Tây Tiến”, Quang Dũng viết “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc Quân xanh màu lá dữ oai hùm Mắt trừng gửi mộng qua biên giới Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”. “Tây Tiến” – Quang Dũng Trong thi phẩm “Việt Bắc”, Tố Hữu viết “Những đường Việt Bắc của ta Đêm đêm rầm rập như là đất rung Quân đi điệp điệp trùng trùng Ánh sao đầu súng bạn cũng mũ nan”. “Việt Bắc” – Tố Hữu. Cảm nhận của anh/chị về hai đoạn thơ trên ? Đáp án Đề 7 Về đoạn thơ “Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi! Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi Mường Lát hoa về trong đêm hơi Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm Heo hút cồn mây súng ngửi trời Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi Anh bạn dãi dầu không bước nữa Gục lên súng mũ bỏ quên đời! Chiều chiều oai linh thác gầm thét Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.” Trích Tây Tiến – Quang Dũng – SGK Ngữ Văn 12, tập 1 – Trang 88 Có ý kiến cho rằng Đoạn thơ là bức tranh thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ, thơ mộng song cũng đầy dữ dội, khắc nghiệt. Đáp án Đề 8 Cảm nhận của em về vẻ đẹp của người chiến sỹ trong bài thơ Tây Tiến – Quang Dũng , qua đó liên hệ tới vẻ đẹp của người chiến sỹ đang ngày đêm bảo vệ biển đảo quê hương? Đáp án Còn nữa, các em vào link này thường xuyên để cập nhật những bài viết mới nhất nhé Phần 2 Kiến thức cơ bản về bài Tây Tiến – Quang Dũng 1. Quang Dũng. – Quang Dũng 1921-1988 tên khai sinh là Bùi Đình Diệm, quê ở Hà Tây. – Quang Dũng là một nghệ sĩ đa tài làm thơ, viết văn, vẽ tranh, soạn nhạc. Nhưng Quang Dũng được biết đến nhiều là một nhà thơ. Thơ Quang Dũng hồn hậu, phóng khoáng, đậm chất lãng mạn và tài hoa. Các tác phẩm chính Mây đầu ô, Thơ văn Quang Dũng… 2. Hoàn cảnh sáng tác bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng. – Tây Tiến vừa chỉ hướng hành quân, vừa là tên một đơn vị quân đội được thành lập đầu năm 1947. – Tây Tiến có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào, bảo vệ biên giới Việt –Lào, đồng thời đánh tiêu hao lực lượng quân đội Pháp ở Thượng Lào cũng như ở miền tây Bắc Bộ Việt Nam. Địa bàn đóng quân và hoạt động của đoàn quân TT khá rộng nhưng chủ yếu là ở biên giới Việt – Lào. Chiến sĩ Tây Tiến phần đông là thanh niên, học sinh, trí thức Hà Nội, chiến đấu trong những hoàn cảnh gian khổ thiếu thốn về vật chất, bệnh sốt rét hoành hành dữ dội. Tuy vậy, họ sống rất lạc quan và chiến đấu rất dũng cảm. – Quang Dũng là đại đội trưởng ở đơn vị Tây Tiến từ đầu năm 1947, rồi chuyển sang đơn vị khác. Rời đơn vị cũ chưa bao lâu, tại Phù Lưu Chanh, Quang Dũng viết bài thơ Nhớ Tây Tiến. Khi in lại, tác giả đổi tên bài thơ là Tây Tiến. Tây Tiến là một bài thơ xuất sắc, có thể xem là một kiệt tác của Quang Dũng, xuất hiện ngay trong thời gian đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp 3. Cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng – Cảm hứng lãng mạn Tác phẩm đã bày tỏ mạch cảm xúc tràn trề của cái tôi trữ tình – nỗi nhớ nồng nàn bao bọc cả bài thơ. Sử dụng nhiều hình ảnh gây ấn tượng mạnh, phát huy cao độ trí tưởng tượng khiến cho bài thơ có nhiều so sánh liên tưởng độc đáo. Đối tượng miêu tả có nhiều nét phi thường, thiên nhiên Tây Bắc vừa hùng vĩ, dữ dội, vừa thơ mộng trữ tình, hoang sơ mà ấm áp, người lính Tây Tiến hào hoa, mộng mơ, lãng mạn. Sử dụng rộng rãi thủ pháp đối lập đối lập về hình ảnh, thanh điệu, tính cách của người lính TT. – Âm hưởng bi tráng “bi” là đau buồn, “tráng” là khỏe khoắn, mạnh mẽ. Tác phẩm có âm hưởng bi tráng thường không né tránh những chuyện xót xa, đau lòng nhưng bao giờ cũng đưa đến những xúc cảm mạnh mẽ, rắn rỏi. Tác giả đã nhắc đến những khó khăn gian khổ trong những cuộc hành quân, nói đến những mất mác, hi sinh, nhưng trong cái đau thương ấy đã hàm chứa những nét đẹp hùng. Bi mà không luỵ. Cái bi được thể hiện bằng một giọng điệu, âm hưởng, màu sắc tráng lệ, hào hùng. – Chất lãng mạn hoà hợp với chất bi tráng, tạo nên vẻ đẹp độc đáo của bài thơ. 4. Nội dung và nghệ thuật của bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng. a. Nội dung – Bức tranh thiên nhiên vùng Tây Bắc tổ quốc ta vừa tráng lệ, hùng vĩ vừa nên thơ, trữ tình. – Khẳng định, ca ngợi vẻ đẹp đậm chất bi tráng về hình ảnh người lính Tây Tiến tâm hồn lãng mạn, khí phách anh hùng, lí tưởng cao cả Vẻ đẹp của chiến sĩ Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp. – Thể hiện tình yêu, sự gắn bó, niềm tự hào của tác giả về trung đoàn Tây Tiến và quê hương Tây Bắc trong những năm kháng chiến chống Pháp. * Đoạn 1 Nỗi nhớ của tác giả và con đường hành quân của trung đoàn Tây Tiến “ Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!…………Mai Châu mùa em thơm nếp xôi” – Nỗi nhớ của tác giả Nhà thơ Quang Dũng gắn bó với trung đoàn Tây Tiến, gắn bó với núi rừng Tây Bắc trong những năm kháng chiến . Vì thế mà khi xa Tây Tiến, xa Tây Bắc – xa đơn vị bộ đội , xa vùng đất nhiều kỉ niệm kháng chiến tác giả nhớ nhung da diết Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi! Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi – Mở đầu bài thơ là lời gọi tha thiết , ngọt ngào. Tác giả gọi tên đơn vị “ Tây Tiến” , gọi tên con sông vùng Tây Bắc “ sông Mã” mà thân thiết , dạt dào cảm tình như gọi tên những người thân thương trong cuộc đời chăng trung đoàn Tây Tiến, núi rừng Tây Bắc gần gũi , thân thương với tác giả và khi xa thì Tây Bắc, Tây Tiến trở thành một “ mảnh tâm hồn” của tác giả. – Tác giả rất thành công trong việc sử dụng nghệ thuật điệp từ “ nhớ “ và từ láy “ chơi vơi”, tác giả “ nhớ chơi vơi” nỗi nhớ ấy không xác định được hết đối tượng , nhớ sông Mã , nhớ Tây Tến, nhớ núi rừng Tây Bắc , … nhớ tất cả. Những nơi trung đoàn Tây Tiến đã đi qua, những đồng đội từng gắn bó,…tất cả đều trở thành kỉ niệm không thể nào vì thế mà khi xa Tây Tiến, xa Tây Bắc trong tâm hồn tác giả trào dâng nỗi nhớ da diết, mãnh liệt. – Con đường hành quân của trung đoàn Tây Tiến Qua nỗi nhớ da diết của nhà thơ , con đường hành quân của trung đoàn Tây Tiến nơi Tây Bắc hiện lên khá rõ nét. – Trước hết là những vùng đất mà đoàn quân đã đi qua, gắn bó, mỗi vùng đất với một nét riêng không dễ gì quên Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi Mường Lát hoa về trong đêm hơi …. Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi ….. Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người …… Mai Châu mùa em thơm nếp xôi + Ở Sài Khao thì sương nhiều như muốn che lấp cả đoàn quân khiến cho đoàn quân mỏi mệt Đó cũng chính là những gian khổ mà chiến sĩ phải vượt qua. + Nếu như ở Sài Khao đoàn quân phải vất vả, mệt nhọc thì khi về Mường Lát thật ấm áp, lãng mạn bởi “ hoa về trong đêm hơi”. “ Hoa”, “ hơi” là hai hình ảnh làm cho bức tranh Mường Lát thêm gần gũi, trìu mến. + Về Pha Luông thì mưa rừng thật thú vị, vừa hành quân vừa ngắm cảnh vật dưới mưa thật lãng mạn, trữ tình. + Có lẽ “ấm lòng” nhất là khi hành quân về vùng Mai Châu , hương vị đặc sản “ nếp xôi”của vùng đất ấy khiến các anh chiến sĩ dẫu có xa cũng không thể nào quên. + Còn ghê rợn nhất là khi về Mường Hịch, cái âm thanh phát ra từ núi rừng ấy thật là khiến cho con người cảm giác bất an “cọp trêu người”. Mỗi vùng đất trung đoàn Tây Tiến đi qua đều để lại dấu ấn trong tâm hồn, tuy có nhiều gian nan, vất vả nhưng cũng rất lãng mạn, trữ tình. – Con đường hành quân của trung đoàn Tây Tiến được tác giả khái quát rõ nhất qua đoạn thơ Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm Heo hút cồn mây súng ngửi trời Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống ….. Chiều chiều oai linh thác gầm thét Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người Đoạn thơ ngắn nhưng thể hiện nét bút tài hoa của Quang Dũng. Ông thành công trong việc sử dụng ngôn từ, hình ảnh, bút pháp,… + Hàng loạt từ láy gợi hình ảnh, cảm xúc “khúc khuỷu”, “ thăm thẳm”, “ Heo hút” + Hình ảnh vừa hiện thực vừa táo bạo, phi thường như dốc cao khiến súng chạm trời – “ súng ngửi trời”, dốc lên bao nhiêu thì xuống bấy nhiêu “ ngàn thước lên cao , ngàn thước xuống” . + Kết hợp hình ảnh với những âm thanh đặc sắc như “ thác gầm thét”, “ cọp trêu người” + Sử dụng nhiều thanh Trắc. + Đoạn thơ đậm khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn. Nét bút tài hoa của Quang Dũng đã vẽ lại con đường hành quân- chiến đấu của trung đoàn Tây Tiến trong những năm kháng chiến chống Pháp , con đường ấy thật gian khổ, hiểm nguy với đèo cao , dốc hiểm và thú rừng dữ tợn nhưng cũng thật lãng mạn, khó quên. – Sau hàng loạt những câu thơ sử dụng thanh Trắc tác giả phóng bút một câu thơ toàn thanh Bằng khá độc đáo “ Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi” Phải chăng sau những đoạn đường hành quân, chiến đấu vất vả thì chiến sĩ Tây Tiến được thưởng thức nét lãng mạn của cơn mưa rừng, được thưởng thức nét đẹp của nhà ai thấp thoáng trong màn mưa. Những giây phút lãng mạn , thơ mộng trên con đường hành quân là ngọn nguồn sức mạnh để các chiến sĩ vượt qua gian lao, thử thách. Qua con đường hành quân của trung đoàn Tây Tiến ta cảm nhận được vẻ đẹp riêng của núi rừng Tây Bắc và trung đoàn Tây Tiến. Tây Bắc vừa hùng vĩ, tráng lệ vừa nên thơ, trữ tình. Chiến sĩ Tây Tiến kiên cường, bất khuất, sẵn sàng vượt gian lao thử thách để thực hiện nhiệm vụ trong hoàn cảnh đất nước có chiến tranh. – Và trên con đường hành quân, chiến đấu , cũng có những chiến sĩ không còn đủ sức để tiếp tục nhiệm vụ, lí tưởng của mình Anh bạn dãi dầu không bước nữa Gục lên súng mũ bỏ quên đời! Hai câu thơ gợi cái bi, sự mất mác , đau thương . Nhưng dẫu các anh “ không bước nữa”, “ bỏ quên đời “ thì vẫn trong tư thế cầm súng. Một số chiến sĩ Tây Tiến không tiếp tục sự nghiệp , lí tưởng bởi lẽ sức đã kiệt. Các anh sống và chiến đấu trong điều kiện thiếu thốn thuốc men, lương thực, lại bị những cơn sốt rét rừng hoành hành nên không còn đủ sức để tiếp bước. Đây là hiện thực đau thương khó tránh khỏi trong những năm kháng chiến nên Quang Dũng cũng không ngần ngại khi nhắc đến. sự ra đi của đồng đội là mất mác không thể nào quên của đại đội trưởng Quang Dũng. Tác giả nhắc đến để tưởng nhớ, buồn thương , tự hào về đồng đội của mình và càng thôi thúc tinh thần chiến đấu để giành lấy sự bình yên, hạnh phúc, độc lập, tự do. Đoạn mở đầu bài thơ “ Tây Tiến” da diết nỗi nhớ đồng đội , nhớ núi rừng Tây Bắc của tác giả Quang Dũng. Qua nỗi nhớ, con đường hành quân của trung đoàn Tây Tiến và bức tranh núi rừng Tây Bắc hiện về khá rõ nét. Đó cũng chính là cái “Tình “ mà Quang Dũng dành cho Tây Tiến ,Tây Bắc Yêu mến, gắn bó và tự hào. Chế Lan Viên Khi ta ở , chỉ là nơi đất ở Khi ta đi, đất bỗng hóa tâm hồn * Đoạn 2 Những kỉ niệm đẹp của trung đoàn Tây Tiến trong những năm kháng chiến chống Pháp. “Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa……….Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa” * Kỷ niệm đẹp một thời trận mạc đã trở thành hành trang của người lính Tây Tiến. Đúng vậy, các chiến sĩ Tây Tiến cũng như chính tác giả cũng không thể nào quên những kỉ niệm trong những năm kháng chiến cùng đồng đội, quân dân. Kỉ niệm khó quên nhất có lẽ là những đêm liên hoan lửa trại Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa…….Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ + Đêm “ hội đuốc hoa” là đêm liên hoan lửa trại giữa chiến sĩ Tây Tiến với đồng bào Tây Bắc, Lào . “ Doanh trại bừng lên “ – tác giả sử dụng từ “ bừng lên” thật hay, làm bừng sáng và tỏa hơi ấm cho không gian đêm hội. Đêm hội có ánh sáng, hơi ấm của “ đuốc hoa”, có tiếng khèn, điệu nhạc và có “em” trong trang phục xiêm áo đang yểu điệu , thướt tha , e ấp, dịu dàng. “ Em” ở đây là cô gái, có thể là các cô gái miền núi Tây Bắc nước ta, có thể là các cô gái Lào. Sự xuất hiện của các cô gái làm cho đêm hội thêm vui vẻ, ấm áp và quyến rũ, say lòng người. + Chiến sĩ Tây Tiến đa phần là những chàng trai Hà Nội hào hoa, lãng mạn và có chút đa tình nên khi các cô gái xuất hiện trong ánh lửa, tiếng khèn điệu nhạc khiến các anh ngạc nhiên , thích thú, say mê. Niềm vui, thái độ thích thú của các anh được tác giả diễn tả ở từ “ Kìa”. Phải chăng các anh ngạc nhiên vì nơi núi rừng ấy lại có những “ đóa hoa” say lòng người đến thế. + Say mê , thích thú trong đêm hội để về “ xây hồn thơ” các chiến sĩ xây mộng với các cô gái Các chiến sĩ thật là lãng mạn. + Tài hoa của Quang Dũng trong đoạn thơ là kết hợp hài hòa hình ảnh, âm thanh, ánh sáng,… Đoạn thơ là bức tranh đêm hội đuốc hoa thật vui vẻ ,ấm áp , lãng mạn . Và đó cũng chính là một trong những kỉ niệm không thể nào quên của trung đoàn Tây Tiến, minh chứng cho tình cảm đồng đội, tình quân dân nồng nàn, thắm thiết. Giây phút vui vẻ, hạnh phúc cùng đồng bào, tình cảm quân dân thắm thiết là hành trang của các chiến sĩ trên chiến trường ác liệt. * Trung đoàn Tây Tiến qua nhiều vùng đất nơi Tây Bắc, mỗi vùng đất với nét đẹp riêng khó quên. Nếu Sài Khao có sương nhiều như che lấp cả đoàn quân Tây Tiến , Mường Hịch có tiếng cọp khiến con người ghê sợ , vùng Mai Châu có hương vị cơm nếp thật hấp dẫn ,…thì Châu Mộc cũng thật lãng mạn, trữ tình. Người đi Châu Mộc chiều sương ấy….Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa Bốn câu thơ theo dòng hồi tưởng “trôi” về miền đất lạ, đó là Châu Mộc thuộc tỉnh Sơn La, nơi có những bãi cỏ bát ngát mênh mông, có dãy núi Pha Luông cao 1884 mét , nơi có bản Pha Luông sầm uất của người Thái. Quang Dũng đã khám phá ra bao vẻ kì thú của miền Châu Mộc. Năm tháng đã đi qua và miền đất ấy trở thành một mảnh trong tâm hồn của bao người. “ Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở Khi ta đi, đất bỗng hóa tâm hồn” Chế Lan Viên + “Chiều sương ấy” là chiều thu năm 1947 , sương trắng phủ mờ núi rừng chiến khu làm cho cảnh, người càng thêm thơ mộng, trữ tình. Buổi chiều thu đầy sương ấy in đậm hồn người khiến cho hoài niệm thêm mênh mang. Chữ “ấy” bắt vần với chữ “ thấy” tạo nên một vần lưng giàu âm điệu, như một tiếng khẽ hỏi “có thấy” cất lên trong lòng. + “ Hồn lau” là hồn mùa thu, hoa lau nở trắng, lá lau xào xạc trong gió thu nơi bờ sông bờ suối“nẻo bến bờ”. Với tâm hồn thi sĩ tài hoa, Quang Dũng đã cảm nhận vẻ đẹp thơ mộng của thiên nhiên Châu Mộc qua cảnh sắc “ chiều sương” và “ hồn lau nẻo bến bờ”. + Điệp ngữ “ có thấy”, “ có nhớ” làm cho hoài niệm về chiều sương Châu Mộc thêm phần man mác, bâng khuâng. Trong chia phôi còn có nhớ , nhớ cảnh rồi nhớ đến người. “ Có nhớ” con thuyền độc mộc và dáng người chèo thuyền độc mộc? “ Có nhớ” hình ảnh “hoa đong đưa” trên dòng nước lũ ? “ Hoa đong đưa” là hoa rừng đong đưa làm duyên trên dòng nước hay là hình ảnh ẩn dụ gợi tả các cô gái miền Tây Bắc xinh đẹp lái thuyền duyên dáng, uyển chuyển như những bông hoa rừng đang đong đưa trên dòng suối? Và nếu là hình ảnh gợi tả các cô gái Tây Bắc thì các cô gái ấy phải có “tay lái ra hoa” mới có thể “ đong đưa” được như vậy. Quang Dũng thật tài tình và con người Tây Bắc thật tài hoa! Bốn câu thơ là những dòng hồi tưởng về cảnh sắc và con người nơi Tây Bắc, nơi cao nguyên Châu bút pháp tài hoa và tâm hồn lãng mạn , Quang Dũng vẽ lại bức tranh tuyệt đẹp về thiên nhiên và con người Tây Bắc. + Thuở ấy, núi rừng Tây Bắc thật hoang vu, là chốn rừng thiêng nước độc nhưng tác giả đã khám phá ra được nét đẹp thật thơ mộng, lãng mạn của cảnh và người .Nhà thơ gắn bó với cảnh vật, với con người Tây Bắc, vào sinh ra tử với đồng đội mới có những kỉ niệm đẹp và sâu sắc như vậy, mới có thể viết nên những vần thơ sáng giá đến như thế. Bức tranh chiều sương Châu Mộc và đêm hội đuốc hoa như một bức tranh sơn mài của một danh họa mang vẻ đẹp màu sắc cổ điển và lãng mạn, kết hợp hài hòa tính thời đại và hiện đại trong máu lửa chiến tranh. Bức tranh chiều sương Châu Mộc và đêm hội đuốc hoa là tài năng , tâm hồn và sự gắn bó sâu nặng của Quang Dũng với trung đoàn Tây Tiến, với núi rừng Tây Bắc và với quê hương đất nước trong những năm kháng chiến chống Pháp. * Đoạn 3 chân dung chiến sĩ Tây Tiến với khí phách anh hùng, tâm hồn lãng mạn trong máu lửa chiến tranh. TâyTiến đoàn binh không mọc tóc………Sông Mã gầm lên khúc độc hành * Trên những nẻo đường hành quân , chiến đấu , vượt qua bao đèo cao dốc hiểm , đoàn quân Tây Tiến hiện ra giữa núi rừng trùng trùng điệp điệp vừa kiêu hùng vừa cảm động. Người chiến binh với quân trang màu xanh của lá rừng, với nước da phong sương vì sốt rét rừng, thiếu thuốc men, lương thực,… TâyTiến đoàn binh không mọc tóc Quân xanh màu lá dữ oai hùm – Hai câu thơ trần trụi như hiên thực chiến tranh những năm tháng kháng chiến chống Pháp. Hình ảnh đoàn quân “ không mọc tóc” vừa gợi nét bi hài vừa phản ánh cái khốc liệt của chiến tranh. Cái hình hài không lấy gì làm đẹp “không mọc tóc”, “ xanh màu lá” tương phản với nét“ dữ oai hùm”. Với bút pháp tài hoa, Quang Dũng làm bật chí khí hiên ngang , tinh thần quả cảm xung trận của các chiến binh Tây Tiến từng làm quân giặc khiếp sợ. – “ Dữ oai hùm” là hình ảnh ẩn dụ nói lên chí khí của người lính Tây Tiến , tuy các chiến sĩ có gầy, xanh nhưng không hề yếu, chí khí của người lính vẫn như con hổ nơi rừng xanh. Cái tài của Quang Dũng là khắc họa chân dung bên ngoài của chiến sĩ Tây Tiến tuy gầy , xanh nhưng vẫn toát lên được cái oai phong, khí phách của người lính cụ Hồ. * Các chiến sĩ Tây Tiến tuy hành quân, chiến đấu trong muôn vàn gian khổ, thiếu thốn, bệnh tật,…nhưng vẫn có những giấc mơ, giấc mộng rất đẹp Mắt trừng gửi mộng qua biên giới…….Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm Các chiến sĩ Tây Tiến mộng và mơ gửi về hai phía chân trời biên giới và Hà Nội, biên giới là nơi còn đầy bóng giặc, Hà Nội là nơi còn đó những kỉ niệm, những người thân thương,… – Mắt trừng – hình ảnh gợi tả nét dữ dội, oai phong lẫm liệt, tinh thần cảnh giác, tỉnh táo của người lính trong khói lửa ác liệt , “gửi mộng qua biên giới” là mộng tiêu diệt kẻ thù,bảo vệ biên cương , lập nên chiến công nêu cao truyền thống anh hùng của đoàn quân Tây Tiến, của chiến sĩ cụ Hồ. – Các chiến sĩ Tây Tiến lại có những giấc mộng đẹp về Hà Nội ,về “ dáng kiều thơm”. Chiến sĩ Tây Tiến vốn là những thanh niên Hà Nội “ Xếp bút nghiên theo việc đao, cung”, họ là những chàng thanh niên trẻ hào hoa, lãng mạn và có chút đa tình. Khi xa Hà Nội, tiến về Tây Bắc để thực hiện nhiệm vụ thì các chiến sĩ luôn “Ngàn năm thương nhớ đất Thăng Long”. Sống giữa chiến trường ác liệt nhưng tâm hồn các anh luôn hướng về Hà Nội , mơ về Hà Nội. Đúng vậy, làm sao các anh có thể quên được hàng me, hàng sấu, phố cổ trường xưa? ,… Làm sao các anh quên được những tà áo trắng, những cô gái thân thương,… những “dáng kiều thơm” đã từng hò hẹn,…? Hình ảnh “ dáng kiều thơm” của Quang Dũng đem đến cho người đọc nhiều điều thú vị , ngôn từ vốn có trong thơ lãng mạn thời “tiền chiến” nhưng dưới ngòi bút của Quang Dũng nó trở nên có hồn, đặc tả được chất lính trẻ trung, hào hoa, lãng mạn của binh đoàn Tây Tiến trong trận mạc. Viết về “mộng” và “ mơ “ của trung đoàn Tây Tiến , Quang Dũng đã ca ngợi tinh thần lạc quan, yêu đời của đồng đội. Đó cũng chính là nét khám phá của nhà thơ khi vẽ chân dung người lính cụ Hồ xuất thân từ tầng lớp tiểu tư sản trong những năm kháng chiến chống Pháp. * Bốn câu thơ tiếp theo tô đậm chân dung chiến sĩ Tây Tiến – Trong gian khổ chiến trận , bao đồng đội đã ngã xuống trên mảnh đất miền Tây, họ nằm lại nơi chân đèo góc núi “Rải rác biên cương mồ viễn xứ……..Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh” Câu thơ “Rải rác biên cương mồ viễn xứ”để lại trong lòng ta nhiều thương cảm , biết ơn, tự hào,…. Câu thơ gợi cái bi, nếu đứng một mình thì nó gợi một bức tranh xám lạnh, ảm đạm, hiu hắt ,…và đem đến cho người đọc nhiều xót thương. Nhưng cái tài của Quang Dũng là đã tạo cho nó một văn cảnh, tiếp theo sau là “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”. Khi nằm trong văn cảnh ấy thì câu thơ càng thể hiện chí khí, tinh thần của người lính Tây Tiến. “Đời xanh” là đời trai trẻ, tuổi xuân. “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh” là họ sẵn sàng ra trận vì lí tưởng cao đẹp bảo vệ biên cương, tiêu diệt kẻ thù, giành độc lập tự do,… Họ là những thanh niên Hà Nội, họ tiến về miền Tây của Tố quốc vì nghĩa lớn của chí khí làm trai. Dẫu thấy cái chết trước mắt họ vẫn không sợ, họ coi cái chết nhẹ như lông hồng. Họ sẵn sàng “ quyết tử cho Tố quốc quyết sinh”. Câu thơ “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh” vang lên như một lời thề thiêng liêng, cao cả. Các anh quyết đem xương máu bảo vệ Tổ quốc , bảo vệ độc lập tự do cho dân tộc. Tinh thần của người lính Tây Tiến cũng như quyết tâm sắt đá của dân tộc ta trong những năm kháng chiến chống Pháp” chúng ta thà hi sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. – Cảnh trường bi tráng giữa chiến trường miền Tây thuở ấy được tác giả ghi lại ở hai câu cuối của đoạn thơ Áo bào thay chiếu anh về đất Sông Mã gầm lên khúc độc hành Các chiến sĩ ngày xưa giữa chốn sa trường lấy da ngựa bọc thây làm niềm kiêu hãnh. Các chiến sĩ Tây Tiến với chiếc chiếu đơn sơ , với tấm áo bào bình dị ấy “về với đất”. Một sự ra đi thật nhẹ nhàng, thanh thản ! Anh giết giặc vì quê hương, anh ngã xuống là “ về đất” , nằm trong lòng Mẹ tổ quốc thân thương. Nhà thơ không dùng từ “ chết”, “ hi sinh” mà dùng từ “ về đất” để ca ngợi sự hi sinh cao cả mà bình dị, thầm lặng mà thanh thản của người lính Tây Tiến. Chiến sĩ Tây Tiến đã sống và chiến đấu cho quê hương,đã hi sinh cho quê hương, “anh về đất” bằng tất cả tấm lòng thủy chung son sắt với Tố quốc. Vì thế mà “Sông Mã gầm lên khúc độc hành” Đây là câu thơ hay, gợi tả không khí thiêng liêng, trang trọng đồng thời tạo âm điệu trầm hùng, thương tiếc. “Sông mã gầm lên “ hay hồn thiêng sông núi đang tấu lên khúc nhạc tiễn đưa linh hồn các anh về nơi an nghỉ cùng đất Mẹ. * Đoạn thơ viết về chân dung chiến sĩ Tây Tiến là đoạn thơ độc đáo nhất trong bài . Đoạn thơ đậm khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn , kết hợp vận dụng sáng tạo trong miêu tả và biểu lộ cảm xúc tạo nên những câu thơ có hồn và khắc họa được vẻ đẹp bi tráng của chiến sĩ Tây Tiến. Các chiến sĩ Tây Tiến đã sống anh hùng và chết vẻ vang. Chính vì thế mà hình ảnh người lính Tây Tiến, người lính cụ Hồ mãi mãi là một tượng đài nghệ thuật bi tráng in sâu vào tâm hồn dân tộc “ Anh vệ quốc quân ơi Sao mà yêu anh thế !” Tố Hữu * Khắc họa chân dung chiến sĩ Tây Tiến đậm chất bi tráng Quang Dũng khẳng định , ngợi ca tinh thần yêu nước , chủ nghĩa anh hùng của chiến sĩ Tây Tiến, chiến sĩ Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp. Đồng thời qua đó thể hiện nét bút tài năng và tình cảm yêu mến, gắn bó, tự hào về trung đoàn Tây Tiến của Quang Dũng. b. Nghệ thuật – Ngôn từ giàu hình ảnh, cảm xúc; nhiều từ ngữ Hán Việt ; từ ngữ chỉ địa danh. – Sử dụng nhiều thủ pháp nghệ thuật đặc sắc như nhân hóa, đối lập, điệp,.. – Hình ảnh đặc sắc, đậm chất thơ chất nhạc. – Kết hợp giữa cảm hứng lãng mạn và bút pháp bi tráng. Nét bút tài hoa của Quang Dũng. Còn nhiều đề thi khác vè bài Tây Tiến, các em bấm vào link này để xem chi tiết nhé Tổng hợp đề thi về các tác phẩm trọng tâm lớp 12 tây tiến
đề bài tây tiến