39 sư vạn hạnh
Thiền sư Vạn Hạnh (?-1018) gốc họ Nguyễn, người hương Cổ Pháp (nay thuộc phường Đình Bảng, thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh), thuộc thế hệ thứ mười hai dòng Thiền Nam phương Tì Ni Đa Lưu Chi. Ông học thông tam giáo (Nho - Phật - Đạo), từng nhiệt thành giúp vua Lê Đại Hành chống ngoại xâm, dựng xây đất
Bán nhà Mặt Tiền Sư Vạn Hạnh phường 9 quận 10 - 4 Tầng, DT: 4.3 x 13 - Hợp đồng thuê 30tr/tháng. Mặt tiền kinh doanh đa ngành nghề - Giá thương lượng 19.5 tỷ. Tin đăng ảnh thật nhà thật.
Video by ĐẠT PHI MEDIA OFFICIAL performing. ©2016 ĐẠT PHI MEDIA OFFICIAL Entertainment Records. All rights reserved★Watch, rate, share and Comment your favo
Đi xuất cảnh cần bán gấp căn nhà hẻm xe hơi Sư Vạn Hạnh, Phường 12, Quận 10. Con đường sầm uất suốt ngày đêm, tập trung nhiều tiện ích nhà hàng, ngân hàng bệnh viện đa khoa vạn hạnh, nhà hát hoà bình
Dưới đây là 39 Sư Vạn Hạnh tốt nhất đã được đội ngũ Đà Nẵng Pearl biên soạn và tổng hợp. Bạn đọc có thể tìm kiếm bài viết về 39 sư vạn hạnh bằng các từ khoá 39 sư vạn hạnh, 39 sư vạn hạnh quận 10, 343/39 sư vạn hạnh phường 12 quận 10, phòng khám tim 39 sư
39, Sư Vạn Hạnh, P. 3, Q. 10, Tp. Hồ Chí Minh (84-28) 62 648 929; Đánh giá của người dùng. Cốc Cốc Map. Cốc Cốc Map. Tìm kiếm, thêm
Vay Tiền Nhanh Cầm Đồ. Trích từ sách Cổ Pháp cố sự tác giả Nguyễn Khôi Thiền Sư Vạn Hạnh là pháp danh tên hiệu đặt khi xuất gia , còn tên tục là Lý Khánh Vạn người đời suy tôn la Thánh Vạn , em trai là Lý Khánh Van ..Sinh trưởng trongcự tộc Lý ở kẻ Báng Dịch Bảng – một gia đình thuộc diện ” Danh Gia Vong Tộc ” nhiều đời thờ Phật. Thuở nhỏ , Vạn Hạnh đã thể hiện là một tràng trai kẻ báng khác thường , học hành thông minh tiến tới , gồm thông ba học giới- định – tuệ, nghiên cứu trăm luận , xem thường công danh . Năm 21 tuổi xuất gia vào khoảng năm quý sửu- 953 đời Hán Ân đế, thời Đinh Bộ Lĩnh mới khởi binh ở Hoa Lư , đang là triều Ngô do anh em Ngô Xương Văn , Ngô Xương Ngập trị vì Vạn Hạnh cùng với Sư Đinh Hụê họ Khúc quê ở Cảm Điền – Phong Châu thờ Thiền Ông ở chùa Lục Tổ trong làng hầu hạ Thầy . Trong mọi lúc hầu hạ Thầy , Sư tranh thủ học tập quên cả mệt mỏi . Sau khi Thiền Ông mất năm 979 , Sư chuyên tập môn ” tổng chì tam ma địa ” lấy đó làm việc riêng của minh . Bấy giờ Sư nói ra lời nào tất đều là phù sấm tiên tri đối với thiên hạ . Thiền Sư Lý Khánh Văn trụ trì chùa Cổ Pháp chùa Dận, còn Thiền Sư Van Hạnh ở chùa Tiêu con gọi là chùa Trương Liêu , chùa Thiên Tam , Tiêu Sơn tự hay chùa Ba Sơn -trên núi Tiêu, làng Tiêu này là xã Tương Giang , cũng là nơi Phạm Thị sau khi ra Lý Công Uẩn , làm Thủ Hộ . Sinh thời , sư Vạn Hạnh cùng với Khuông Việt Đại Sư Ngô Chân Lưu – 933- 1011 là những vị tăng thống được vua Lê Đại Hành kính trọng . Nhà vua coi các vị là Quốc Sư. Năm Thiên phúc thứ nhất 981 Hầu Nhân Bảo của nước Tống đem quân sang xâm lược nước ta , đóng quân ở Cương Giáp Lạng Sơn Vua mời Sư Vạn Hạnh đến đem chuyện thắng bại ra hỏi . Sư đáp ” trong ba bảy ngày thì giặc phải lui”. Sau quả nhiên thư thế . Vua muốn đi đánh Chiêm Thành , cùng triều thần bàn bạc mà chưa quyết , Sư tâu Vua xin hãy cấp tốc xuất quân , không để lỡ cơ hội . Sau đánh quả nhiên toàn thắng . Qua những tiên đoán , tham gia ý kiến để Nhà Vua Lê Hoàn tin tưởng ra quyết tâm quyết chiến với quân giặc . Sư Vạn Hạnh đã chứng tỏ vai trò Quốc Sư tài ba nỗi lạc của Triều Đinh Tiền Lê, được Vua tin cậy và kính trọng . Về mặt chính trị xã hội , Sư Vạn Hạnh đã “cố vấn” cho Vua về hoạt động Phật giáo Quốc giáo như gửi thư cho nhà nhà Tống xin ” Đại Tạng kinh ” nhằm tăng cường độ giao hảo giữa hai nước, đáp ứng yêu cầu học tập nghiên cứu của Phật tử ở nước ta lúc bấy giờ . Về việc xuất gia , chọn cửa thiền ở tuổi 21 Sư thuộc dòng thứ 10 của Thiền phái Tì Ni Đa Lưu chi mà Sư Pháp Thuận 925-990 đã từng giữ một vai trò quan trọng trong việc củng cố phát triển chính quyền cho Vua Lê Đại Hành ; Sư Vạn Hạnh cũng đã tiếp tay cho Pháp Thuận trong việc nay . Đó là cái tâm cảnh hay công nghiệp của thời đại mà Vạn Hạnh đã lớn lên . Tâm cảnh của một đất nước sôi động , bức bối vì ngoại bang đô hộ áp bức , vì những biến tướng quá độ của một dân tộc bị cát cứ chia rẽ đang chuyển mình để thống nhất , độc lập tự chủ , vì những quyêt tâm công sức cho Đạo Pháp và thế nhân theo truyền thông tu tập của dòng Thiên Tì ni Đa lưu chi . Dòng Thiền này do Thiền Sư Ấn Độ Tì Ni Đa Lưu Chi Vinitaruci thành lập. Sư tu ở Chùa Pháp Vân chùa Dâu ở Thụận Thành, người nước Ô trượng của Bắc Thiên Trúc Ân Độ xưa dòng Bà nam môn . Từ nhỏ Sư đã mang chí xuất tục đi khắp Tây Trúc cầu tâm ấn Phật . Nhân duyên đạo chưa gặp , bèn cầm gậy sang đông nam . Năm Giáp Ngọ 574 Sư đến Trường An Trung Quốc , đúng lúc Phật Giáo ở đây bị đàn áp nặng nề Pháp nạn 3 năm 574- 577 Sư phải lánh nạn sang đất Nghiệp để xin thọ giáo Đệ Tam Tổ Tăng Xán . Tổ dạy ” người nên qua phương nam giao hoa , không nên ở đây lâu ” . Sư từ biệt về Quảng Châu ở chùa Chế Chỉ dịch kinh Phật sau 6 năm Kinh Tông Trì đến năm 580 thì Sư sang nước ta ở chùa Pháp Vân . Một hôm Sư gọi đệ tử Pháp Hiền ?-626 ở chùa Chúng Thiện xã Phât Tích , Tiên Du dạy rằng Tâm ấn chư Phật Tất không lứa dối Tròn đông Thái Hư Không thiếu không dư Không đi không đến Không được không mất Chẳng một chẳng khác Chẳng thường chẳng đoạn Vốn không chỗ sinh Cũng không chỗ diệt Cũng chẳng lìa xa Chẳng không lìa xa Vì đối vọng duyên Nên giả đặt tên Bỉ thế chư Phật ba đời Cũng dùng như thế mà được Tổ Sư nhiều đời Cũng dùng như thế mà được Ta cũng dùng như thế mà được Cho đến hữu tình, vô tinh Cũng dùng như thế mà được Vả , Tổ ta Xán Công Khi ấn cho ta tâm đó Bảo ta mau Nam hành giáo hóa Không nên ở lại đây lâu Trung Quốc Từng Trải nhiều nơi Mói đến được đây Viêt Nam Nay gặp được người Pháp Hiền Quả gặp Huyền Ký Người khéo giữ gìn Giờ đi Tịch của ta đã đến Nói xong Sư chắp tay mà mất . Pháp Hiền làm lễ Trà Tỷ , thu Xá lợi , xây tháp để thờ năm 594 sau này Vua Lý Thái Tông có làm bài kệ truy tán Mở lối sang nước Nam Nghe Sư giỏi tập Thiền Mở bày niêm tin Phật Xa hợp môt nguồn tim Trăng Lăng Già vằng vặc Sen bát nhã ngát thơm Bao giờ được gặp mặt Cung nhau bàn đạo huyền Và nhà Vua đã phong tặng cho Sư . Tư tưởng của Thiền Tông có thể nói gọn là ” Phật ở trong tâm moi người. Sùng bái giữ giới , khổ hạnh , học vấn , cầu kinh nếu chỉ có vậy thì không có nghĩa ly gì cả . Phải đạt tới GIÁC NGỘ mới là mục đích tối thượng của Phật Tử -đạt được GIÁC NGỘ là PHẬT . Tâm là Phật và Phật chính là Tâm . Tâm an Tĩnh . đó là Niết bàn . Thiền là con đường duy nhất dẫn đến giác ngộ . Thiền không có nghĩa là suy tưởng ; Thiền là thấu đạt chính Phật tính nơi mình “. Sư Tổ đã từng dạy “Tự thân mê lầm thì chúng sinh tức là Bố Tát , khi tự thân Giác Ngộ thì Bồ Tát là chúng sinh . Mà xưa nay Sư Tổ đem Y Pháp cùng Tăng Pháp phó truyền cho đệ tử thì Pháp là dùng Tâm truyền tâm , điều khiển tự ngộ , tự giải . Từ xưa chư Phật chỉ truyền bản thể , chư tông Sư mật trao bản Tâm , cho nên mới nói ;” Cái Tâm không tín chấp vào đâu cả “. Vạn Hạnh xuất gia đã vào tuổi trưởng thành , quyết định chọn con đường Phật Giáo của thời đại ma dấn thân .Có thể nói , Vạn Hạnh là nhà trí thức tiên tiến xuất chúng của thời đại bấy giờ . Vạn Hạnh đã ” khởi ” đi vào đời xuất thế bằng Nho , ở lại với đời bằng Lão và đã vươn lên tất cả bằng Phật Giáo. Ở Sư là sự kết tinh tổng hòa nhuần nhuyễn tam giáo để hành sử , thích ứng với đời mà Sư đã sống . Theo truyên sử , Vạn Hạnh đến với Phật Giáo qua ngõ tam học 3 học tức lối ngõ nguyên thủy mà yếu chỉ tu tập là Giới – định – tuệ . Lối ngõ tam học này có thể dẫn người học lạc vào nẻo Giáo điều tiêu cực nhăm mắt buông xuôi với thế sự để ẩn nhấn đợi chờ giác ngộ , qua trương kỳ khổ luyện . Nhưng Sư đã không làm như vậy , Sư đã từ tam học để tiên thêm một bứớc nữa trên con đường tu chứng . Bước mới đó là tam luận , là thập nhi môn , trung quán và bách luận , đó là những con đường phá chấp toàn triệt , giải phóng toàn diện kẻ tu hành khỏi những vứớng mắc , chấp trứớc vê tri cũng như về hành . Đó cũng là con đường Vạn Hạnh hội nhập với khuynh hứơng nhập thế tu chứng của dòng Ty Ni Đa Lưu Chi . Sử sách kể là ; Sau khi Thầy ” tịch” Vạn Hạnh còn chuyên hành một Pháp môn khác là Tổng trì tam ma địa Đà Na Ni tam muội – một lối thiền định bằng cách đọc các khẩu quyết Phạn Ngữ . Nhờ đó Vạn Hạnh đã xuất Thần thông Sấm ký để hành đạo cứu đời , xây dựng nên Vương nghiệp Nhà Lý dài tới 216 năm . Phật giáo với Vạn Hạnh đã có tác dụng vừa như một động lực cho Sự tiến tới trên con đường hoằng hóa,lại vừa như một chất xúc tác làm cho Sư tổng hòa với đời , với đạo , cũng như chinh với bản thân Sư….. Vạn Hạnh và Phạm Thị Ở chùa Tiêu Tiêu sơn tự, Trường liêu tự,Thiên tâm tự còn tấm bia đá cổ “Lý gia linh thạch “ có dòng lachữ ghi “ Thiên tâm tự chủ,tộc tăng Lý Vạn Hạnh ,Cổ Pháp nhân dã”nghĩa Làm chủ chùa Thiên Tâm là Sư Vạn Hanh, người làng Cổ Pháp . Đồng thời theo bia “ Lý gia linh thạch ” còn ghi “ đặc đông ngạn Hoa Lâm nhân Phạm mẫu ”nghĩa là bà mẹ Phạm Thị ở Đông Ngạn huỵên , Hoa Lâm xã. Về nguồn gốc quê mẹ Lý Thái Tổ , xưa nay vẫn con đang có hai nguồn tư liệu , ý kiến tranh chấp nhau ? -1 là Lý Thái Tổ lập làng Hoa Lâm . Năm 1010 , vua Lý Thái Tổ lên ngôi , lập thái miếu ở Kẻ Báng Dịch Bảng – Đình Bảng, lập Thái đường nhà thờ mẹở Cối giang. Cối giang sau này là tổng Hội phụ tức cổng Cói cùng thuộc huyện Đông Ngạn ,Phủ Từ Sơn , trấn Kinh Bắc với Đình Bảng , Dương Lôi hiện nay , khi đó là bãi đất hoang phế lên bờ phía đông sông Đuống sông Thiên Đức. Vua Lý chiêu mộ viên đinh phu trồng hoa cung như trường hợp Làng Nuốn Đại đình là 1 xóm của Dịch Bảng Đình Bảng –Cổ Phápvốn người trong làng “tuyển” ra để chuyên lo việc trồng rừng ở khu”thọ Năng Thiên Đức ”, trấn giữ phía đầu lang phía đông Đền Đô , đến đời vua Lê- Chúa Trịnh mới xin tách lập”xa” riêng là Đại Đình , lập chùa riêng, nhưng vẫn hay lấy tên là chùa Cổ Pháp và đình làng Nuốn cũng chỉ thờ vọng 8 vua triều Lý. Do trồng được hoa nhiêu như rừng nên nhà vua đặt tên là xã Hoa Lâm. Lúc đầu có 6 thôn “Hoa lâm lục thôn “ gôm có Thôn Thái Đường , là thôn thờ mẹ Vua Lý . Du Lâm là nơi sau khi lễ mẹ vua xong thì về đó du ngoạn ,thư giãn và câu cá ở đây có ao rất dài nơi Vua hay câu cá gọi là “ngự câu”vì vậy còn gọi Du Lâm là “Cói ao dài ” ; các thôn ngoại vi là xóm Đông , xóm Du ngoại ,thôn Lộc Hà, thôn Đông Trù bếp nấu ăn cho Vua . Thôn Thái Đường có nhà thờ mẹ vua nay là thôn Thái Bình , ngày mùng 2 tháng 5 Nhâm Thìn1232, Trần Thủ Độ làm bẫy sập ở Hoa Lâm , phut chốc chon song 70 tôn thất nhà Lý, họ Lý phải đổi sang họ Nguyễn , con cháu thất tán đi muôn phương , suốt thời nhà Trần chỉ được làm thứ dân đi phu đi lính không được đi học , không được thi cử làm quan ! Ý kiến thứ nhất này , lâu nay coi Hoa LâmCói là quê của Phạm Thị. -2 là “Phạm Thị” người làng Đình Sấm Dương Lôi thuộc hương Cổ Pháp …các tác giả Nguyễn Văn Chu và Tiến sỹ giám đốc văn hóa Sở văn hóa Bắc Ninh sau này là Trần Đinh Luyện trên báo Hà Bắc ra ngày 14-10-1995”mới phát hiện” tìm ra tên của Phạm Thị là Phạm Thị Ngà – còn có tên là Phạm Thị Tiên-Theo thần tích ở chùa Dâm có cha là Phạm Long , mẹ là Dặng Thị Quang sau khi sinh con Lý Công Uẩn, bà Phạm Thị mang con đến chùa Mạnh Tân , huyện Yên Phú nay là chùa Dâm , xã Thủy Lôi , huỵen Đông Anh đen năm con 9 tuổi mới bắt đắt con về quê cũ đến chùa Cố Pháp được Sư Lý Khánh Văn nhận làm con nuôi . Ở Đình Bảng Kẻ Báng thì lại lưu hành truyền thuyết .”khi xưa Đức Bà là Phạm Thị xinh đẹp gữi việc quét dọn ở chùa Tiêu , nơi có Sư Vạn Hạnh họ Lý tu thành chính quả trụ trì .Một đêm gió mát trăng thanh bà mệt mỏi ngủ quên ở hiên chùa , váy sống hớ hênh . Sư sau giờ niệm phật về phòng , vô ý bước qua nguời bà . Thế rồi bà có chửa . Khi sắp đén ngày mãn nguyệt khai hoa , Sư bảo bà về chùa Cổ Pháp nơi ấy có nhà Sư Lý Khánh Văn , em ruột của Sư Vạn Hạnh trụ trì . Một đêm xuân thang hai ngày 12 bà khăn gói sang chùa Cổ Pháp nhưng vừa đến cổng chùa thì đau bụng trở dạ . Bà rặn đẻ ngay dưới mái trong cổng chùa . Nhà Sư Lý Khánh Văn nghe tiếng trẻ khóc oa oa vội chạy ra … Từ ấy , chú bé ra đời ở cổng chùa được nuôi nấng trong chùa , mang tên Công Uẩn có thể hiểu là “người đàn ông làng Diên Uẩn “ chữ’công” cũng có ý tôn vinh mong muốn “người có sự nghiệp hiển hách “, về họ thì lấy họ Lý của cha nuôi . Chú bé lớn lên khôn ngoan khác người thường , đến năm bảy tuổi thì được đưa về chùa Tiêu cho Lý Khánh Vạn Sư Vạn Hạnh, tiếp tục nuôi dạy ; và chùa Cổ Pháp được dân làng Diên Uẩn Cổ Pháp gọi là chùa Dận gọi chệch chữ “Rặn” mà ra . Ngôi chùa chở tha nơi phát tích của triều Lý Nước ta ”. Nhà văn Xuân Cang nhân về thăm Đình Bảng , đước trứơc cổng chùa Dận dã bình phẩm như sau ” chỉ sau một chữ Rặn thôi mà hàng ngàn năm sau chung ta có thể hình dung ra những bước đi đầu tiên của một nhân vật lịch sử vĩ đại Cái thời phát tích vẻ vang ấy đã được mô tả rất thú vị trong quẻ Thủy Lôi Truân của Kinh Dịch . Thủy là nước ở đây là mây . Lôi là Sấm . Truân là gian nan .Thời quẻ Truân là thời trời đất mới mở mang ,âm dương cuơng nhu mới giao hòa , viẹc sinh nở còn khó khăn , có mây có sấm mà chưa có mưa lên còn gian nan ; truân chuyên . người xưa dạy rằng thời Truân này chính là thời nguyên sơ tốt lành tuy hiểm trở khó khăn đấy nhưng có mây có sấm thì sẽ có mưa , chỉ cốt là là tìm được người hiền tài , giỏi việc Kinh Luân , tổ chức sắp xếp việc nước , việc dân giỏi như dệt vải .Kinh là chia ra từng sợi , luân là dệt thành tấm .Người có tài Kinh luân ấy chinh là chú bé sinh ở cổng chùa Dận Cổ Pháp tự. Chuyện ở Cổ Pháp xưa đã được người bạn thơ của NK khái quát bằng mội bài thơ Vịnh Sử như sau Một cái bước qua mà nên chuyện Để người quét lá chịu hàm oan Thân cô vượt cạn đêm chùa Dận Lịch sử sinh thành,dưới mái hoang Nguyễn Đức Lưu Theo chính sử “ Đại Việt sử ký toàn thư ” tập 1 trang “240” Vua họ Lý , tên húy là Công Uẩn , người châu Cổ Pháp , lộ Băc Giang , mẹ họ Phạm , đi chơi ở chùa Tiên Sơn chùa Tiêu , Trường liêu tự cung vơi người thần giao hợp rồi có chửa sinh Vua ngày 12-2 năm Giáp Tuất , niên hiệu Thái Bình năm thứ 5974 thời Đinh .”….” Vua sinh ra mới 3 tuổi , mẹ ắm đến nhà Lý Khánh Văn nhận làm con nuôi”.Ở vùng quên Đông Ngạn – Từ Sơn đến nay còn lưu chuyền câu ca dao Con ai đem bỏ chùa này A di đà Phật con thầy thầy nuôi . Ở đây cần lưu ý là “đi chơi chùa” chứ không phải là “ở chùa” mà ở sứ Kinh Bắc ta xưa nay việc đi trảy hội , lễ chùa của trai gái là rất tự do khoáng dật mông 8 tháng 4 không đi hội Gióng cũng hư mất đời – ca dao, có lẽ vào thời điểm lễ “Bụt đẻ “ này “ Phạm thi” đi chơi chùa Tiêu đã “Vướng duyên” với Sư Vạn Hạnh nên có chửa đẻ ra Đức Vua sau này . Đã là Sư , đạo cao ,đức trọng được Vua Lê Đại Hành trọng dụng , niêm vinh dự cho cực tộc Lý ở Cổ Pháp – do đó “không thẻ có con’ được ! Dù có thật thì vẫn phải bưng bít , gán cho là con thân nhân ở đây không phải là “ướm dấu chân” hay là một cái “bước qua” mà sử sách ghi là “giao hợp” hẳn hoi…..án tại hồ sơ .thật không cãi vào đâu được ! con thâychùa lại giả cho thầy chùa ở đây là Sư em Sư đệ nuôi con Sư anh Sư huynh. Lý giải này là hợp lẽ với truyền thuyết đân gian và bia “Lý gia linh thạch’’ .hòn đá thiêng ghi dòng họ Lý Di tích chùa Tiêu hiện nay chủ yếu tôn vinh Vạn Hạnh Thiền Sư , trong chùa co tượng Thiền Sư Vạn Hạnh bằng đồng được thờ trong nhà tổ có bài vị ghi rõ “Lý chiều nhập nội, tể tướng Lý Vạn Hạnh thiền sư thần vị”. Theo “thiên nam ngữ lục” sách còn lưu giữ ở chùa Tiêu , cho ta thấy “Bà Phạm Thị vốn là một thanh nữ có nhan sắc , đực độ , nhưng do xa cơ lỡ vận phẩi đi làm thuê làm mướn , ăn mày ăn xin ở chùa Ứng Đại?. Nói về việc “thụ thai sinh quý nhân” sách viết Tháng giêng năm Giáp Tuất này Giữa ngày mùng 9 là ngày Bụt sinh ………………. Âm dương thăng giáng một hồi Thủy liêm mở động ngọc lơi dề dề … Sau khi bà Phạm Thị mang thai , nhà Sư ấy không giám nhận vì sợ mang tiếng đến thanh giới tu hành nên đẫ đuổi bà đi . Bà bụng mang dạ chửa đã phải đi hành khất , tuy có nhiều người hỏi , lấy lam lẽ nhưng bà khônng chiu , không muốn Chỉ e phàm khí lộn thai Lỗi đạo cùng trời , mất đạo cùng con Bà cố đi tới chùa Dâm Mạnh Tân tự một ngôi chùa hẻo lánh cách chùa Dận Cổ Pháp Tự khoảng 10 cây số. Dân làng ở đây con giử được cuốn thần tích do Quan Hàn Lâm Viện , Đông các đại học sỹ Nguyên Bính soạn năm 1574 ; 9 năm sau , Phạm Thị đem con về chùa Cổ Pháp gặp Lý Khánh Văn – Sư hỏi hết sự tình , tinh tuối đưa trẻ , nhận làm con nuôi đăt tên là Công Uẩn Uẩn có ý nghĩa là tiềm ẩn sức mạnh , được mang theo họ Lý , là họ của cha nuôi mà cũng đích thực là của cha đẻ - vì có những lơi dặn dò của Phạm Thị ủy thác cho Sư Lý Khánh Văn vơi ước vọng của bà mẹ đứt ruột đẻ ra , chịu đựng biết bao miệng thế gian ẩn náu nuôi con …. Lời dặn dò của tử mẩu đó quả là thiêng liêng , gửi gắm vì sự nghiệp tương lai của con mình cho Sư Lý Khánh Văn do đó dân làng Cổ Pháp gọi nôm là chùa Dặn ý là dặn dò dần dần đọc là “chùa Dận” hiểu thao ý rặn đẻcòn có tên là Ứng tâm tự ;trong chùa có nhà mẫu thờ riêng “ Lý triều quốc mẫu”, ban thờ Sư Lý Khánh Văn …cùng hai pho tượng cổ tạc bà Phạm Thị và Sư Khánh Văn .. Ở chùa Dận Cổ Pháp tự còn giữ nguyên quả chuông đúc năm minh mệnh 20 Kỷ Hợi , đề là Cổ Pháp tự trung”, trên quả chuông co khắc 1 bài “minh” Phú chung cổ thi Lam danh Cổ Pháp Thắng chiêm Nam thiên Bồ chung sơ tạo Phạm các thi trung Khung kinh Phật thất. Kỷ tam thập niên Ái thử nhân lý Pháp thử thiện duyên Dục hoàng qủa phúc Bất tận kim tiền Quân dạng công tạo Vượng mệnh hậu vinh Hỏa lư luân chú Kim chất hoàn toàn Huyền chi lần các Khoa động thiên lân Từ phong viễn tưởng Vụ nguyệt thưởng tên Nhĩ văn tâm ngộ Tự viễn thiện thiên Với thiện tối lạc Thụ phúc vô biên Phúc do tâm tạo Chung dĩ minh truyền Minh mệnh nhị thập liên Tuế thứ kỷ hợi Dịch Thơ phú chuông cổ. Danh lam cổ pháp Trời nam nhất miền Chuông thiên đúc trước Thơ trong gác thiền Đọc hết kinh phật Trải ba mươi năm Yên long nhân ái Việc thiện lên duyên Muốn được quả phúc Chớ có ăn tiền Người góp công tạo Bản mệnh hiển vinh Lò lửa hun đúc Đồng đốt đòng ròn Treo chuông lên gác Vang động trời bên Gió xa cũng hưởng Xem trăng khuyết tròn Tai nghe , tâm ngộ Điều thiện tự thiên trời Làm thiện được lạc an lạc Được phúc vô biên Phúc do tâm tạo Chuông vọng vang rền. Minh mạng năm thứ 20 Kỷ hợi Tương truyền sau khi gửi con Lý Công Uẩn cho Sư Lý Khánh Văn , bà Phạm Thị rời chùa Dặn đi về phía Tây Nam rừng Báng , đến gò “Mả Báng” nay ở gần thôn Long Vỹ, gần làng Nành , nơi có huyệt phát đế vương theo sự dò tìm của Cao Biền trước đó thì bà bị bạo bệnh . Thổ địa liền cho mối đùn thành mộ nay là “Lăng phát tích” diện tích 240m, cao hơn mặt ruộng 1m . Ngày giỗ ngày mùng 7 tháng giêng hàng năm. Ở Dương Lôi đình Sấm thì lại tương truyền là Xưa có bà Phạm Thị Ngà làm thủ hộ chùa Gia Châu còn gọi là chùa Minh Châu hay “Châu minh Tự”? thường lên núi Tiêu hái củi, nơi Sư Vạn Hạnh trụ trì .”vì cảm động” mà bà có thai sau sinh Vua Lý, bà liền bị dân làng duổi ra bìa làng sự tích na ná như chuyên Man Nương , chuyện Thánh Gióng và chùa được gọi là “cha Lư” có nghĩa là chùa La kêu la gọi cha. Chư La được viết theo hán tự đọc thành chữ Lư , với ý nghĩa là nơi sinh Vua Lý cất tiếng khóc chào đời , rồi tập nói kêu nên goi cha mà không co cha . Vì những lý do tế nhi bi ẩn kể trên mặc dù triều lý dài tới 216 năm , có 9 đời vua , thừa quyền lực điêu tra để biết chua vua Lý Công Uẩn là ai? Mà theo chinh sử thì sau khi nên ngôi , vua Lý Thuận Thiên , đã phong cha truy phong là Hiển Khánh Vương ,Mẹ là Minh Đức Thái Hậu, chú làm Vũ đạo vương , anh Vũ uy vương ,chú làm VŨ Đạo Vương ,con Vũ Uy Vương là Trung Hiển làm Thái úy. Đến mùa xuân thang 2 năm 1018 truy phong “Bà nội” làm Hậuhoàng thái hậu và dặt tên thụyđể thờ cúng. Như vạy là về gia tộc của Lý Công Uẩn ở kẻ Báng là một cự tộc , có ông bà chú bác anh em họ nội khá đông đúc , nhưng vì là “con thầy chùa” nên không tiện công bố “ cha thực của nhà vua là ai ?”! Trong chuyện về Thiền Sư Vạn Hạnh ở sách Thiền uyển tập anh có chép “ ban đêm Sư Vạn Hạnh ngồi nhập định nghe xung quanh nơi mộ Hiển Khánh Vương chồng bà Phạm Thị – cha của Lý Công Uẩn 4 phía đều có tiếng ngâm thơ , bèn cho chép lại”… Nói thế tức là Lý Công Uẩn có “mộ Cha” khi Vạn Hạnh còn sống … Nhưng thực thì ở Thọ Lăng Thiên Đức trong rừng Báng , nay là cánh đồng Đình Bảng có tất cả 11 Lăng mộ trong đó có đủ 9 vị vua nhà Lý, cùng Lăng Lý thánh mẫu Lăng phát tích và lăng Ỷ Lan Nguyên Phi Lăng lương dâu không hề có lăng mộ Hiển Khánh Vương ? Trong khi đó trên núi Tiêu Sơn phía trước chùa có bãi đất gọi là “mả vua”phải chăng đây là mộ cha vua Lý Công Uẩn, chính là mộ của Thiền Sư Lý Vạn Hạnh trụ trì ở đây ? Thôi , lịch sử có những điều kỳ bí , mới là thú vị chỉ có trời mới biết được ! Ở ta những nhân vật thánh thần , vua chúa ,danh nhân thiêu gì Người “không có Bố” như Thánh Gióng, Đinh Tiên Hoàng , Mạc Đĩnh Chi , Chu Văn An … Trước Lý Công Uẩn , trong thần thuyết về sự thác sinh của Phạm Bạch Hổ mẹ ông vào miếu nấp mưa , giao phối với thần miếu trong cơn mưa , có mang đẻ ra ông Sứ quân nhập cuộc vào loạn 12 Sứ quân thời giữa thế kỷ thứ X. Vậy có thơ rằng CON GÁI PHỦ TỪ Giỏi thay con gái Phủ Từ Từ xưa đã dám yêu Sư Chùa Viềng Động Ngàn đất Phật linh thiêng. Đẻ ra Vua chúa rồng tiên nhà mình Không đi tu cũng đã xinh Đi làm Thủ Hộ hết mình ….đẹp sao Đất thì thấp , trời thì cao Con trời , con Phật gửi vào nhà ta Con trời chẳng biết mặt cha Lớn lên trung dũng tài ba lạ thường Ai về bên bến sông Tương Chớ gần cô Tiểu mà vương phải bùa . Vạn Hạnh và Đa Bảo Khi Lý Công Uẩn lớn lên thì Thiền Sư Vạn Hạnh và Đại Sư Khuông Việt đều đã cao tuổi , do đó Vạn Hạnh đã gửi học trò của mình cho Thiền Sư Đa Bảo kèm cặp thêm . Theo sách Thiền uyển tập anh thì sư Đa Bảo tu ở chùa Kiến Sơ , làng Gióng Phù Đổng , Huyện Tiên Du - không biết là người ở đâu ,và cũng không biết họ là gì .Khi Đại Sư Khuông Việt dạy tại chùa Khai Quốc Đại La , Sư Đa Bảo đến tham học , được Đại Sư khen là ngừơi gặp việc thì chóng hiểu , xử sự cẩn thận , nên riêng cho nhập thất .Sau khi đắc Pháp , Sư chỉ một mình một bát , tiêu dạo ngoài vật . Sau được chùa Kiến Sơ , bèn đến ở đó . Lý Công Uẩn lúc mới gặp còn là chú tiểu , Sư thấy tướng mạo anh tuấn khác thường , bèn bảo “ Trẻ này cốt tướng phi phàm , một ngáy kia sẽ làm Vua , ắt là người này đây”. Lý Công Uẩn cả kinh , thưa “ hiện nay Thánh thượng anh minh Lê Đại Hành còn đó ,trong nước đang yên vui , Thầy sao lại nói lời phản nghịch, nếu nhà Vua nghe được thì sẽ bị tội tru di?” Sư bảo ; “ Mệnh trời vốn tiền định , dù người muốn trốn cũng chẳng được nào . Giả như lời ta mà đúng thì mong nhà ngươi với ta chớ bỏ nhau”. Khi Lý Công Uẩn lên ngôi Vua , đã nhiều lần mời sư Đa Bảo vào cung , hỏi bàn yếu chỉ củaThiền và ơn lễ Sư rất hậu . Đến cả việc chính trị của triều đình,sư Đa Bảo đều tham dự phần quyết định . Vua Lý Thái Tổ xuống chiếu trùng tu chùa Kiến Sơ. Sau không rõ Sư tịch ở đâu ? Qua truyện trên ta biết Sau Vạn Hạnh thì sư Đa Bảo là thầy dạy dỗ rèn cặp Lý Công Uẩn thuở còn hàn vi , rồi đến khi Lý Công Uẩn làm Vua thì lại tham gia quyết đoán việc triều chính . Theo nhà Sử học Lê Mạnh Thát thì trước khi sư Đa Bảo về trụ trì ở chùa Kiến Sơ vào khoảng năm 990, Sư đã gần 40 tuổi ở đây có đền Phù Đổng lúc đó mới chỉ là thờ một vị thổ thần của hương Phù Đổng . Đến các sách Việt Điện U Linh và Lĩnh Nam chích quái thế kỷ XV coi Phù Đổng như một vị tướng dẹp giặc Ân thời Hùng Vương – và sau này vua Lý Thái Tổ , vốn học thầy Đa Bảo ở đây, đã tôn vinh thần Phù đổng là Xung Thiên Đại Vương, đền thờ thổ thần Phù Đổng ở chùa Kiến Sơ , trước đó do sư Cảm Thành – vào khoảng năm 820 , có một nhà giàu trong làng , họ Nguyễn , đã hiến cả dinh cơ của nhà mình để Sư lập lên chùa Kiến Sơ Thờ Phật đồng thời lập nhà thờ thổ thần mé bên phải nhà chùa . chưa tôn thành Thánh Gióng . Phù Đổng Thiên Vương như sau này . Ngày tháng xói mòn, dân trong làng biến khu chùa đền đó thành nơi cầu đảo thờ quỉ ma , gọi bậy là “dâm từ” . Đến khi sư Đa Bảo đến trụ trì , để dẹp đi … Sư đã sang tác “ sấm thi” ..một hôm , tại cây cổ thụ trước đền thờ thổ thần hiện 1 bài thơ “Kệ” rằng Phật pháp ai hay hộ Giữ Đức ở vườn kỳ Nếu không ta giống cây Sớm đã xứ khác đi Chẳng chở kim cương bộ Na La Diên dấu kỳ Đầy trời nhiều bụi tạp Chùa Phật chứa yêu ma Một ngày khác , Người ta nghe thấy trên không trung có tiếng đáp Phật pháp từ bi lớn Ánh thiêng phủ cả trời Nguyện thường theo thọ giới Vườn kỳ mãi giúp thôi Có sách viết là bài “Kệ” trên hiện ra cây cổ thụ trước dền Phù nói làthấy làm lạ bèn lại thiết đàn trì giới cho thần. có trì giới là để trừ tà ác , để thanh tịnh , dễ bề tụ định và phát tuệ , để chúng sinh có Phật tính … tu mới đắc đạo . Đức Vua Lý Thái Tổ lúc còn tiềm long rồng chưa xuất hiện biết sư Đa Bảo đức hạnh cao thượng , ở cương vị học trò đã cùng làm đàn việt vị thí chủ cho thầy .Khi đã lên ngôi vua , tự thân về thăm chùa Kiến Sơ với Thầy ở đó . Thiền sư nghênh giá đi qúa bên chùa . Sư cất tiếng hỏi ; “ Phật tử , người sao không nhanh nhẹn đến chúc mừng Đức tân thiên tử ?” Thần Phù Đổng ứng thanh, hiện ra nơi da cây vỏ cây cổ thụ4 câu thơ Đức Đế càn khôn lớn Oai thanh yên tám miền Cõi âm nhớ ân huệ Nhuần thấm phong xung thiên . Thái Tổ trông thấy , đọc rất biết ý đề xuất của thần , liền ban hiệu cho Thần Phù Đổng là Xung Thiên Đại Vương . Bài thơ ở da cây tự dưng biến Mất . Vua lấy làm lạ , sai thợ tạc tượng thờ thần Xung Thiên Đại Vương Thánh Gióngdung nghi hùng vĩ và tướng hầu 8 pho . Sơn thếp xong rồi ,lại thấy hiện ở cây đại thụ 4 câu thơ Một bát nước công đức Tùy duyên hóa thế gian Sáng choang còn chiếu đuốc Bóng mất trời lên non. Sư đem bài “Kệ” trên trình vua . Thái Tổ không hiểu rõ câu sấm đó nói gì? Câu sấm này tiên tri ứng với nhà Lý tồn tại 8 đời Vua thì truyền ngôi cho nhà Trần . Chữ “ Bát” là y bát chiếc bát khất thực và chữ Bát là số 8 đồng âm 1 lối chơi chữ 1 bát tức như 8 , vua Lý Huệ Tông tên Sảm , đấy gọi là “trời lên non” Sấm thi thơ Sấm nó thần diệu như vậy đó . Cũng có ý kiến cho là bài sấm thi trên do Sư Vạn Hạnh sáng tác . Như vậy sự tích Thánh Gióng Xung Thiên Đại Vương có từ thời sư Đa Bảo và Vua Lý Thái Tổ , đến đời Trần được tôn vinh thành một vị thiên tướng thời Hùng Vương , đại biểu cho tinh thần chống ngoại xâm ở thời sư Đa Bảo trở thành một Phật tử , rồi được vua Lý Thái Tổ phong làm Xung Thiên Đại Vương . Sách Việt Sử Diễn Âm sau này cũng đưa sự kiện này trong mô tả lịch sử như sau Thái Tổ lại nhớ đến thầy Ở chùa Phù Đổng ngày rày viếng chơi Thiên tăng thấy vua đến chơi Đến Thần Vương miếu có lời rằng bây Có tân Thiên Tử đến đây Thần Vương xá lại , đường này mừng Vua Thần liền hiện đến bốn câu Dòng dòng vào quạt nên thơ bảo Thầy Thi văn Nhất bát công đức thủy Tùy duyên hóa thế gian Quang minh trùng chiếu diệu Miệt ảnh nhật đăng sơn Thiền tăng lại bảo rằng bay Ấy lời phản phúc xa thay khôn lường Thần Vương lại bảo tỏ đường Thơ khác lại chép vào tường cho hay Thi văn ; Đế đức càn khôn lại Uy quang chiếu bát điên Đình âm mong huệ hải Phú ốc bái Xung Thiên Qua chuyện trên , đời nay ta thấy Thần Phù Đổng từ một vị thần làng muốn trở thành thần quốc gia của cả một nước tôn thờ, 1 trong tứ bất tử dã xuất phát từ nhà vua chính quyền phong tước Xung Thiên Đại Vương , có như vậy mới linh ứng thiêng và mới được toàn dân tôn thờ . Dân gian có câu ; hòn đất nặn nên Bụt , khúc gỗ tạc lên tượng thánh thần …. qủa là chí lý ! Công lao của sư Đa Bảo với Đức vua Lý Thái Tổ là đã dẹp đền thờ thần Phù Đổng ở dạng dâm thần mà Sư Cảm Thành đã dựng lên tạo ra ở chùa Kiến Sơ …từ do tạo ra một vị thần mới Thánh Gióng- Xung Thiên Đại Vưong đáp ứng được nhu cầu tâm linh lễ bái , cầu nguyện của nhân dân , đồng thời đề cao dược tinh thần yêu nước chống ngoại xâm của dân tộc mình . Như vậy là các vị trí thức Quốc Sư , Vua chúa đã sáng tạo ra Thần Thánh để phục vụ đắc lực cho công cuộc Quốc thái dân an – đó là một kỳ diệu ở trên thế gian này- nước Đại Việt ta. Vạn Hạnh và Lý Công Uẩn Với Lý Công Uẩn sau này là Vua Thuận Thiên , Thái Tổ nhà Lý thì Thiền Sư Vạn Hạnh đích thực là thầy học có thể là cha dẻ ngừoi đã dạy dỗ, dìu dắt , tiến cử vào làm Quan với Vua Lê Đại Hành , làm tới Tả thân vệ Điện tiền chỉ huy sứ như chức bộ trưởng Quốc phòng- tổng tư lệnh quân độiđể rồi đến lúc “ tật Lê chìm bể Bắc , hạt Lý mọc trời Nam” lên ngôi Hoàng Đế . Ngay từ buổi đầu , ở Viện Cảm tuyền ở Chùa Lục Tổ nơi Thiền Sư Lý Khánh Văn đang nuôi và dạy Lý Công Uẩn lúc còn trẻ thơ , Sư Vạn Hạnh thấy khen rằng “ Đây là người phi thường sau khi lớn lên tất có thể giải quyết rối rắm cho đời mà làm Minh Chúa của Thiên hạ”. Sư Vạn Hạnh quả là một vị Quốc Sư có con mắt tinh đời con mắt của nhà tướng số, tiên tri “trông mặt mà bắt hình dong” kỳ tài là vậy Sau này nhà thơ Huy Cận , sau 985 năm đã có bài thơ “mắt Lý Công Uẩn” như một sự tiếp nối của hai thầy trò cha con nhà Lý . Mắt chứa không gian – chứa thời gian Nhìn trước nghìn năm – mắt địa bàn Vạn dặm phù sa bồi lịch sử Dời Đô , dất nước đã sang trang. Vĩ nhân , Thánh nhân hơn người đời bình thường là có con mắt nhìn thấu tương lai là vậy . Đời bây giờ có Chủ Tịch Hồ Chí Minh cũng có nhiều dự báo như thế . Sư Vạn Hạnh và Sư Lý Khánh Văn là hai anh em ruột lên sự giao lưu đi lại giữa hai chùa Lục Tổ , chùa Tiêu ở cùng trong 1 vùng cách nhau độ hơn 3 cây số trong Hương , rồi là châu Cổ Pháp , ;là thường xuyên .ở chùa Lục tổ có viện Cảm Tuyền 1 loại trường học thời bấy giờ để dạy con em trong vùng có Lý Công Uẩn học ở đấy . Vào thời điểm trước khi Lý Công Uẩn lên ngôi một loạt các “điềm” xấu tốt đã xuất hiện . Sử sách đã chép ; “ bấy giờ Ngoạ Triều bạo ngược , Trời và người đều chán . Lý Công Uẩn lúc ấy làm Thân Vệ chưa nhận truyền ngôi . Trong khoảng thời gian này , những điềm đan xem như chó trắng ở Viện Cảm Tuyền , chùa Ứng Thiên Tâm 1 tên khác của chùa Dận lông trên lưng chó hiện thành chữ Thiên Tử vua . Sét đánh vào cây Gạo ở thôn Đình Sấm , hương Cổ Pháp để lại bài văn Thụ căn diểu diểu …. Ở xung quanh mộ Hiển Khánh Vương cha Lý Công Uẩn đêm có nghe tiếng đọc tụng sấm thi . Cây đa ở chùa Song Lâm làng Nành.có sâu ăn vào vỏ cây hằn lên thành chữ Quốc . Ấy , đại khái , những việc này điềm báo tùy theo nơi tai nghe mắt thấy . Sư dã xét bàn , mỗi điều đều hợp với điềm Lệ diệt Lý hưng” Cái điềm sinh chó trắng có chữ Thiên Tử trên lưng ứng với Lý Công Uẩn sinh năm Giáp Tuất cầm tinh con chó Đại Việt Sử ký toàn thư cũng chép “…kẻ thức giả nói bởi đó là cái điềm của người sinh năm Tuất sẽ làm Thiên Tử”. đến lúc ấy , Vua sinh năm Giáp Tuất mà làm Thiên Tử , quả đúng’’. Ở Trung Quốc và Việt Nam ta cũng như nhiều nước trên thế giới cái chuyện sấm vĩ kiểu này xưa nay vẫn được lan truyền khá thú vị “sấm” nhiều khi là do người đời sau đặt ra như là “để hợp pháp hóa” khẳng định một sự kiện có thật đã được tiền định trời làm ra thế để củng cố một niềm tin đích thực . Các bài sấm thi mà người ta nghĩ là do Sư Vạn Hạnh sang tác nhằm tạo dư luận , phò Lý Công Uẩn xây dựng sự nghiệp Đế Vương đã bắt nguồn từ Sư Định Không và Sư La Quí đất Cổ Pháp sẽ sinh ra một vị Đế Vương đủ sức làm chủ đất nước không còn bị ngoại bang đô hộ và làm cho Phật giáoQuốc giáo hưng thịnh. Quan điểm chính trị của Sư Vạn Hạnh Thầy của Lý Công Uẩn là rất rõ ràng. Đó là phảiđấu tranh giành được Tổ quốc độc lập , quan điểm chi phối đã gần 300 năm phất triển của lịch sử tư tưởng văn hóa Việt Nam cho đến hôm nay có lẽ vẫn là còn nguyên giá trị . Sử sách còn chép lại Ngày Lý Thái Tổ lên ngôi , Sư Vạn Hạnh đang ở chùa Đà chùa Lục Tổ linh tính đã biết trước , gọi 2 Vương chú Bác của Lý Công Uẩn tới nói Thiên tử Ngoạ Triều đã băng , Lý Thân Vệ đang ở nhà Hoa Lư . Tay chân họ Lý túc trực trong thành Hoa Lư lên tới số nghìn. Nội trong ngày Thân Vệ ắt sẽ được thiên hạ Bèn yết bảng ở đường cái nói rằng . Cây Lê chìm bể Bắc Chồi Lý mọc trời Nam Bốn phương gươm giáo lặng Tám cõi được bình an. Tật lê trầm bắc thủy Lý tử thọ Nam thiên Tứ phương qua can tỉnh Bát biểu hạ bình yên. Hai vương nghe Sư nói , rất sợ , sai người đi hỏi , quả đúng như Sư đã nói . Qua đó cho thấy việc Lý Công Uẩn lên ngôi Vua là sự sắp dặt công phu của thầy cha đẻ mình và đấy là niềm hạnh phúc nhất của Sư Vạn Hạnh , nó đặt hy vọng của không biết bao nhiêu vị Thiền Sư , tiền bối đất nước độc lập , Phật pháp hưng thịnh. Sử sách thời Tiền Lê còn ghi Sau khi Đại Hành hoàng Đế băng , Trung Tông Long Việt vâng lên chiếu lên nối ngôi , Long Đĩnh làm loạn , Trung Tông vì tình anh em cùng mẹ không nỡ giết , tha cho . Sau Long Đĩnh sai bọn trộm cướp ban đêm trèo tường vào cung giết Trung Tông vừa lên ngôi được 3 ngày . Bầy tôi đều chạy trốn , duy có Điện tiền Quân là Lý Công Uẩn ôm xác Vua Trung Tông mà khóc , Vua Ngoạ Triều , khen Công Uẩn là người,trung nghĩa, trọng dụng . Chính vì thế có lần ăn quả Khế thấy hột mận chữ Lý có nghĩa là cây mận tuy đã từng được nghe lời sấm vĩ cây Lê chìm bể Bắc , chồi Lý mọc trời Nam…” Vua Ngoạ Triều đã ngầm tìm người họ Lý giết đi , thế mà Công Uẩn ở ngay bên cạnh , rốt cuộc cũng không ngờ . Đến khi Ngoạ Triều băng do ốm liệt gường, chết tại Điện ngủ , Vua nối ngôi còn bé , Công Uẩn tả điện tiền chỉ huy sứ cùng với Nguyến Đê – Hữu điện tiền chỉ huy sứ , mỗi người được đem 500 quân Tùy Long vào làm túc vệ bảo vệ ấu chúa khi ấy Lý Công Uẩn 36 tuổi ; trong cung lúc ấy có Chi Hầu Đào Cam Mộc do biết Lý Công Uẩn muốn lên ngôi , bèn bóng gió nói khích rằng mới rồi chúa thượng u tối bạo ngược , phần nhiều làm việc bất nghĩa , Trời chán ghét cái Đức ấy , nên không cho sống lâu , con nối thơ ấu chưa cáng đáng nổi những khó khăn ; cơ sự rắc rối , Trăm quan không ưa , dân đen ngao ngán , đi tìm chân chúa . Thân Vệ sao không nhân lúc này , vận dụng mưu cao , ra quyết định sáng suốt , xa thì theo dấu chân Vua Thang Vua Vũ , gần thì noi việc Dương thị – LêHoàn , trên thuận lòng trời dưới theo ý dân ? Sao mà còn khư khư ôm lấy cái điển tiết chăng ? Lý Công Uẩn tuy trong bụng hài lòng về lời nói đó , nhưng còn ngờ có mưu gian ., mới vờ mắng Cam Mộc răng “ Sao ông dám nói những lời như vậy ? ta phải bắt nộp cho triều đình”Cam Mộc chậm rãi đáp tôi thấy thiên thời và nhân sự như vậy nên mới dám trình ra , nay muốn bắt nộp triều đinh, thực không sợ chết !” Công Uẩn nói “ta sao lỡ tố cáo ông , nhưng sợ lời kia để lộ ra thì 2 ta cùng bị giết”. Cam Mộc lại bảo Lý Công Uẩn “Người trong nước đều nói họ Lý đáng thay họ Lê , lời sấm đã thành sự thật , không thể giấu được , chuyển họa thành phúc là lúc này đây ; Thân Vệ còn ngờ chăng ?” Công Uẩn nói ! Ta xem chí công ông không khác ý Vạn Hạnh, quả như lời nói ấy , có kế sách gì không ? Cam Mộc rằng “nay đang lúc trăm họ mệt mỏi , dân không chịu noi lệnh trên , Thân Vệ nếu lấy ân đức mà vỗ về , họ sẽ vui vẻ đi theo như nước dồn về chỗ trũng , ai có thể chặn được”. Cam Mộc biết có sự gấp gáp , để chậm e sinh biến , bất lợi , ông nói với khanh sĩ trong Triều , ngày hôm đó cũng họp ở triều đường , bàn rằng nay muôn triều người có lòng khác , dưới trên bỏ Đức , người ta oán tiên Vương hà khắc bạo .ngược , không muốn theo tự quân Vua còn bé nối dõi mà chỉ muốn suy tôn Thân Vệ , bọn ta không nhân lúc này lập Thân Vệ làm Thiên Tử , nếu bất chợt có biến , thì có giữ được đầu cổ của mình không ?Do thế , họ cùng nhau dìu Công Uẩn lên làm chính Điện , lập làm Thiên tử . Khi lên ngôi trăm quan ở dưới sân rồng đều sụp lạy , trong ngoài đều hô “vạn tuế” tiếng vang khắp cả triều đình . Như vậy là ta thấy việc lên ngôi của Lý Công Uẩn 3 nhân vật có vai trò quyết định là Thiền Sư Van Hạnh , Chi Hậu Đào Cam Mộc và Hữu điện tiền chỉ huy sứ Nguyễn Đê .1 Với Vạn Hạnh , có lẽ ngày lên ngôi của Lý Công Uẩn là ngày hạnh phúc nhất của cuộc đời Sư sau bao nhiêu năm đấu tranh, nó thỏa mãn được nguyện vọng của Sư , cũng như của biết bao nhiêu vị Thiền sư tiền bối đât nước được đôc lập , Vua ta làm chủ nước ta , Phật giáo cũng được phát triển và hưng thịnh cùng đất nước – Phật giáo không thể phát triển bên ngoài dân tộc và càng không thể hưng thịnh khi dân tộc mất chủ quyền . Nói như nhà Sử học Tiến sỹ Lê Mạnh Phát ; “ việc Vạn Hạnh phấn đấu đẻ yểm trợ và tạo điều kiện cho Lý Công Uẩn làm chủ đất nước thể hiện quan điểm chính trị nêu ở trên là rất tiến bộ . Quan điểm chính trị này có thể nói đã chi phối 300 năm phát triển lịch sử tư tưởng và văn học việt nam… 1. Nguyễn Đê là con trai của Định Quốc Công Nguyễn Bậc . Khi Nguyễn Bậc bị Lê Hoàn giết còn đang du học ở Bác Giang , Ông là bạn thân của Lý Công Uẩn , sau được Vua Lê phong tước ngang với Lý Công Uẩn hữu Thân Vệ . Con cháu sau này truyền đến Hoài đạo hiếu Vũ Vương Nguyễn Nộn , tổ tiên của dòng họ Nguyễn Trãi , Nguyễn Gia Miêu các Chúa Nguyễn và Vua Gia Long . Truyền thuyết ở Hoa Lư thì Lý Công Uẩn là con rể của Dương Thái Hậu Vân Nga_ Hoàng Hậu của 2 Vua Đinh Tiên Hoàng và Lê Đại Hành . 29 năm sau khi Lê Hoàn lên ngôi Hoàng Đế thì lịch sử Đại Việt ta đã diễn lại một cách tương tự Lý Công Uẩn cũng như Lê Hoàn là những Ông Vua bầu » do Triều Đình suy tôn . Nguyễn Khôi
Thiền Sư Vạn Hạnh sinh khoảng năm 937–mất khoảng năm 1018 là một tu sĩ Phật giáo từng được sử sách thừa nhận đã giữ vai trò chủ chốt trong cuộc “đảo chánh” êm ả, không đổ máu đưa Lý Công Uẩn lên ngôi vua lập nên vương triều nhà Lý kéo dài 216 năm 1010-1226 kế thừa vương triều Lê Đại Hành chỉ tồn tại 29 năm 980-1009 ..Sử sách ở đây gồm có những bộ sử về dân tộc Việt Nam nói chung và về lịch sử Phật giáo Việt Nam nói riêng. Bộ “Đại Việt Sử Ký Toàn Thư”–Bản Việt dịch in năm 2011 tại Hà Nội –Nhà Xuất Bản Thời Đại–viết tắt ĐVSKTTba lần nhắc tới Sư Vạn Hạnh trong Kỷ Nhà Lý . Một lần vào năm 977 , Lý công Uẩn được 3 tuổi, làm con nuôi Sư Lý Khánh Vân, đến chùa Lục Tổ học. Sư Vạn Hạnh lần đầu trông thấy đã khen là khác thường về sau có thể làm vua giỏi trang 159 . Lần thứ hai, trước khi vua Ngọa Triều Lê Long Đĩnh chết vào năm 1009, Sư Vạn Hạnh đã khuyên Lý Công Uẩn nên lập chí thay ngôi nhà Lê vì lòng dân đều oán ghét sự tàn ác của Long Đĩnh và theo lời sấm vĩ đang loan truyền trong dân gian thì họ Lý sẽ thay họ Lê trang 155. Lần thứ ba khi Sư Vạn Hạnh viên tịch, có lời bàn của Sử thần Ngô Sĩ Liên ”Vạn Hạnh mới trông thấy Lý Công Uẩn, biết là người phi thường; đến khi sét đánh thành dấu chữ trên cây thì suy tính biết sự biến chuyển của thì vận, thế thì tri thức hơn người thường” trang 167.Sách “Việt Nam Sử Lược”viết tắt VNSLcủa Trần Trọng Kim trong Chương IV-Nhà Lý– chép”Bấy giờ lòng người đã oán giận nhà Tiền Lê lắm, ở trong triều có bọn Đào Cam Mộc cùng với Sư Vạn Hạnh mưu tôn Lý Công Uẩn lên làm vua”.Trong sách “Việt Nam Phật Giáo Sử Luận” xuất bản lần đầu tiên năm 1973 tại Sài Gòn, in lại năm 2000,nhà xuất bản Văn Học Hà Nội–viết tắt VNPGSL tác giả Nguyễn Lang dẫn hành trạng của Sư Vạn Hạnh trích thuật từ sách “Thiền Uyển Tập Anh Ngữ Lục” in vào đời Lý Trầncho biết Sư từng đựơc vua Lê Đại Hành tham vấn về việc nước, như khi nhà Tống sai Hầu Nhân Bảo đem quân xâm lược , hoặc khi vua muốn đánh Chiêm Thành để cứu sứ giả Việt Nam bị vua Chiêm bắt giữ. “Vạn Hạnh, mà sau này được nhà Lý tôn xưng quốc sư, rất giỏi về chính trị và đã sử dụng sấm vĩ một cách tài tình trong cuộc cách mạng bất bạo động đưa Lý Công Uẩn lên ngôi vua”……”Trong cuộc vận động đưa Lý Công Uẩn lên ngôi, Vạn Hạnh đã vận động dư luận quần chúng bằng sấm truyền rất hữu hiệu.” trang 141.Trong sách “Văn Học Đời Lý”viết tắt VHĐL bản in năm 1957, Sài Gòn, nhà xuất bản Hướng Dương,tác giả Lê Văn Siêu viết ”Cuộc đảo chánh năm 1010 của Vạn Hạnh, sau cuộc đảo chánh năm 980 của Lê Hoàn, không mất một giọt máu, không gây một oan cừu, dầu muốn dầu không cũng đã là một tác phẩm nghệ thuật” trang 107….”” Sư Vạn Hạnh khi thành công đã không chịu nhận một chức tước gì trong triều của ông vua vốn là học trò của mình, mà ngai vàng lại đã do chính tay mình đem đến, tư cách ấy nào khác gì với tư cách của Phù Đổng Thiên Vương” trang 111.Trong sách ” Vạn Hạnh, Kẻ Đi Qua Cầu Lịch Sử” bản in năm 1997, California, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam Tại Hoa Kỳ xuất bản–viết tắt VH,KĐQCLS,Hòa Thượng Thích Mãn Giác 1929-2006 viết ”Con đường Vạn Hạnh đi không phải là con đường lên núi làm một nhà tu cô đơn khổ hạnh, cũng không phải con đường đưa Sư đến chỗ ngồi nhìn vách quay lưng lại cuộc đời mà tu. Con đường Sư đi là con đường hành động với con tim vô tư, vô cầu, với quyết ý dốc cả tâm can phò trợ những người khoan dung được lòng dân có hoài bão làm cho dân cho nước thịnh trị ” trang 28….” …..”Biến một đứa con rơi sống nhờ cơm chùa thành một kẻ văn võ toàn tài và từ một kẻ văn võ toàn tài thành một vị vua sáng lập triều Lý thịnh trị dài lâu hơn hai trăm năm” trang 31.Sư Vạn Hạnh đứng trong hậu trường tạo ra thời cuộc. Con người ấy làm chính trị nhưng lại không trở thành một ông quan mũ cao áo dài đầy bổng lộc trên chính trường. Đại cuộc thành rồi , người vẫn chỉ mặc áo nâu sồng, muối dưa hai bữa đạm bạc. Ta hãy xét xem trong bối cảnh lịch sử nào và hệ tư tưởng nào mà Sư Vạn Hạnh lại có “tri thức vượt người thường” như Bối cảnh lịch sử từ 938 đến 1009Khi Sư còn là một hài nhi thì người anh hùng Ngô Quyền 898-945 đã lập một chiến công lẫy lừng vào năm 938 quyết định nền tự chủ của dân tộc Việt Nam ra khỏi bóng tối 1000 năm Bắc Thuộc. Sau khi Ngô Quyền giết Thái Tử Hoàng Tháo của vua Nam Hán thì triều đình Nam Hán , cho đến khi bị diệt vào năm 970 bởi Tống Thái Tổ, không còn dám toan tính xâm lăng nước ta nữa. Giặc ngoài không còn nhưng nội loạn lại diễn ra sau khi Ngô Vương băng hà vào năm 945. Em vợ Ngô Vương là Dương Tam Kha cướp ngôi của cháu là Ngô Xương Ngập. Lòng dân ly tán, hùng trưởng ở các địa phương nổi lên tự cai quản , cho dù con Ngô Vương là Ngô Xương Văn có đuổi được Dương Tam Kha rồi lập lại vương quyền cho họ Ngô vào năm 950 nhưng chính quyền trung ương yếu không dủ sức dẹp . Khi Ngô Xương Văn chết năm 965 thì nước Việt lâm vào tình trạng vô chủ với 12 sứ quân cát cứ 12 địa tình hình loạn lạc ấy, Sư Vạn Hạnh xuất gia năm 21 tuổi 958 làm đệ tử của Sư Thiền Ông tại chùa Lục Tổ , làng Cổ Pháp thuộc tỉnh Băc Ninh. Thiền Ông là đệ tử thế hệ thứ 11 của Thiền Phái Tỳ Ni Đà Lưu Chi TNĐLC. Như vậy Vạn Hạnh thuộc thế hệ thứ 12. Chính hệ tư tưởng của thiền phái này dẫn dắt các môn đồ đem thiền vào hành động xã hội chính trị. Tu không phải là chỉ nhìn vào vách để an tâm mình, cũng chẳng phải rút vào rừng núi xa nhân gian. Cái “chúng sinh” cụ thể phải “cứu độ” chính là quần chúng dân tộc đang đói rách vì loạn lạc, đang ngày đêm sống trong sợ hãi vì bị bắt lính, cướp bóc, giết tróc vô luật pháp hay là theo luật rừng của từng sứ sách “Việt Nam Phật Giáo Sử Luận”,tác giả Nguyễn Lang đã nêu rõ tôn chỉ của thiền phái TNĐLC Chương V có ảnh hưởng đến tư tưởng của Vạn Hạnh như thế chỉ của đạo Nho là “Tu thân,Tề gia, Trị quốc, Bình thiên hạ”. Nho sĩ bắt buộc phải lập gia đình sanh con nối dõi tông đường, phải thi cử ra làm quan nhận mũ áo cân đai bổng lộc, phải đóng vai “cha mẹ của dân” để cai trị , phải trung với triều vua mà mình là thần tử. Cùng lộ trình đó , tu sĩ Phật giáo có nội dung khác hẳn. Tu sĩ không được lập gia đình để tâm mình không vướng vào vòng nhỏ hẹp vợ con cháu chắt mà rộng mở ra khắp chúng sinh để phục vụ. Vì vào đời phục vụ quần chúng nên dễ bị tài sắc danh lợi cám dỗ, tu sĩ phải qua bước tu thân rất khó khăn, khó hơn nho sĩ nhiều. Nếu nho sĩ tu học để sau này hưởng phú quý, tức là hưởng đủ ngũ dục–tài sắc danh thụy thực, thì tu sĩ Phật giáo tu học để chống lại ngũ dục. Ở giai đoạn này, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi chủ trương tu tâm dựa theo tiêu chuẩn vượt ngôn ngữ văn tự, siêu hữu vô để đạt đến tâm vô tư, vô chấp, vô cầu. Kinh Tượng Đầu Tinh Xá nói “Văn Thù Sư Lợi, Bồ Đề tâm giác ngộ siêu việt ngôn ngữ, siêu việt văn tự, không cần điểm tựa” VNPGSL-trang 119. “Phải quán ngũ ấm, lục nhập, thập bát giới,thập nhị nhân duyên, sự lưu chuyển sinh tử, và các hình tướng thiện ác là huyễn hóa, không phải hữu cũng không phải vô”sđd trang 121Bước thứ hai tề gia, chẳng phải tề cái gia đình có vợ con cháu chắt mà tề cái gia đình tăng thân đang cùng tu trong chùa. Bước thứ ba trị quốc, tu sĩ chỉ đóng vai cố vấn chính trị cho vua mà thôi, không lệ thuộc vào hệ thống quan cách. Như khi Đinh Tiên Hoàng lên ngôi năm 968 sau khi bình định 12 sứ quân, thiền sư Ngô Chân Lưu viên tịch năm 1011, thuộc thế hệ thứ 5 thiền phái Vô Ngôn Thông được vua phong là Khuông Việt Đại Sư , không phải là một chức quan trong triều, mà chỉ là một danh hiệu cố vấn . Vị tu sĩ cố vấn này chỉ trung thành với dân tộc mà không trung với một triều vua, cho nên khi nhà Đinh mất 980, thiền sư vẫn đóng vai trò cố vấn cho vua Lê Đại Hành lên ngôi 981-băng hà năm 1004 nhất là trong việc giao tế với sứ thần nhà Tống. Pháp sư Đỗ Pháp Thuận viên tịch năm 991, thuộc thế hệ thứ 10 thiền phái TNĐLC nổi tiếng trong vai trò tiếp sứ thần nhà Tống là Lý Giác, giúp cho uy thế của vua Lê Đại Hành càng vững vàng đối với triều đình nhà Tống xem sách ĐVSKTT , trang 142, sư Pháp Thuận giả làm lái đò , làm thơ đối đáp khiến Lý Giác kính phục dân tộc Việt.Sở dĩ thiền phái Tỳ Ni Đà Lưu Chi đi sát với quần chúng Việt Nam là do yếu tố Mật Giáogần cận với tín ngưỡng thần linh trong dân gian. Sự tin tưởng vào siêu lực của những câu thần chú, vào ảnh hưởng của phong thủy đối với nhà cửa cung điện trong đời sống hàng ngày, nuôi hy vọng vào một tương lai sáng sủa hơn qua sự bí mật truyền cho nhau những lời sấm ký có tính tiên tri…là những yếu tố vận động quần chúng của các vị sư. Tác giả Nguyễn Lang viết “Sự sử dụng thuật sấm vĩ và địa lý trong thiền phái Tỳ Ni Đà Lưu Chi nhất là trong lãnh vực chính trị, rất là quan trọng” sđd-PGVNSL, trang 134.Trong 24 năm trị vì, vua Lê Đại Hành đã củng cố chính quyền trung ương vững mạnh, giữ yên cuộc nội trị, vừa làm cho nhà Tống phương Bắc kiêng dè, làm cho Chiêm Thành phương Nam nể sợ. Tiếc thay, vua là một ông vua sáng bên ngoài mà tối bên trong. Vua không nhìn thấy mầm loạn làm mất nhà Lê lại nằm ngay trong chính các con của mình. Lê Long Đĩnh, tính tình hung ác, dâm dật, đã dám giết người anh ruột từng tha thứ bao dung mình để cướp ngôi, thì còn ai mà không dám hành hạ để mua vui sđd–ĐVSKTT-trang 154. Xét về mặt tâm lý , hầu như Lê Long Đĩnh mắc chứng bệnh “sadism”, làm kẻ khác đau khổ mà mình cảm thấy khoái lạc. Tư cách người lãnh tụ như vậy mà cả triều đình im lặng hùa theo thì mất nước là lẽ đương nhiên, như nhà nho thường nói “Thượng bất chính hạ tắc loạn”.Trong 4 năm trị vì 1005-1009, Long Đĩnh đã làm lòng dân quên hết công lao của vua cha, chỉ còn lửa oán giận nung nấu muốn lật đổ cả vương triều. Chính trong 4 năm u ám mà chế độ Ngọa Triều phủ lên đất nước , sư Vạn Hạnh quyết đi nước bài chót của ván cờ đã dàn từ mấy chục Từ tư tưởng đến hành Giai đoạn hấp thụ truyền thống 958-980Vào năm 21 tuổi khi đi tu theo thiền phái Tỳ Ni Đà Lưu Chi, trong 22 năm, sư VH đã hấp thụ hai truyền thống tinh thần–một là từ Tổ Tỳ Ni Đà Lưu Chi đến Giao Châu hành đạo năm 580 truyền xuống 11 đời về tôn chỉ tu hành ; hai là lòng yêu nước âm ỉ trong đáy sâu tâm hồn của toàn dân nuôi chí độc lập tự chủ trong suốt ngàn năm Bắc thuộc. Lòng yêu nước đó không phải là “chủ nghĩa yêu nước” mà là một sức mạnh tâm linh vượt cao hơn mọi chủ nghĩa, mọi hệ thống triết học du nhập từ ngoài như Phật giáo, Nho giáo, Lão Giáo, Duy Tâm sử quan hay Duy Vật sử quan . Sức mạnh đó đươc kết tinh và thể hiện bằng hành động nơi những cá nhân tài ba nổi lên lãnh đạo toàn dân chống Hán tộc Trưng ,Triệu, Lý Nam Đế, Triệu Việt Vương, Mai Hắc Đế, Bố Cái Đại Vương Phùng Hưng, Ngô Vương Quyền, Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành, Lý Thái Thượng Thích Mãn Giác viết ”Cuộc khởi nghĩa thất bại của Phùng Hưng năm 791 chống nhà Đường và những biện pháp kềm kẹp tiếp đó đã làm cho người Việt Nam yêu nước phải suy nghĩ…….Sự suy nghĩ lại của người Việt Nam có học và có tiềm năng lãnh đạo chính trịlà phải ẩn nhẫn đào tạo nhân tài để chờ thời cơ thuận tiện. Nhà chùa trong thời Bắc thuộc lần thứ tư này quả đã tích cực theo chính sách đó” sđd VH,KĐQCLS trang 18-19.Chính quyền đô hộ của người Tàu tất nhiên chỉ dùng nho sĩ làm các việc thư lại mà thôi,và chỉ chăm lo xây đồn lũy, nhà tù và các trạm thu thuế, hầu như không xây dựng trường học hay mở mang các trung tâm văn hóa. Nhà chùa trở thành những nơi nương tựa tinh thần cho dân chúng, tức là nơi ấp ủ hồn dân tộc và nuôi dưỡng ý chí quật khởi. Sư Định Không thế hệ thứ 8thiền phái TNĐLC–mất năm 808 ngay từ năm 785 đã tiên tri tại làng Cổ Pháp tỉnh Bắc Ninh sẽ xuất hiện nhân tài họ Lý xây dựng nền móng lâu bền cho nền độc lập tự chủ của dân tộc sđd VNPGSL trang 137. Vậy là lời tiên tri đó đã lưu truyền trong dân gian gần 200 năm khi nhà Đinh mất năm 980, khi sư VH hơn 40 tuổi và khi Lý Công Uẩn mới chỉ có 6 tuổi 974-980 truyền qua 3 thế hệ thiền sư Thông Thiện thế hệ thứ 9, La Quý An thế hệ thứ 10, Thiền Ông thế hệ thứ 11.Chính Cao Biền, một danh tướng của nhà Đường có tài phong thủy địa lý, cai trị đất Giao Châu 9 năm từ 866 đến 875 đã nhìn biết đất Cổ Pháp là địa linh sinh nhân kiệt nên cho đào 19 địa điểm để yểm phá theo lệnh của vua Đường Ý Tông 860-873. Nhưng chính sư La Quý An đã cho lấp cả 19 nơi như cũ. Sự truyền thừa ý chí quật khởi từ thế hệ này sang thế hệ khác giống như một cuộc chạy rước đuốc tiếp sức, có lẽ khi đến tay Vạn Hạnh thì đã chín Giai đoạn huấn luyện và tiến cử Lý Công Uẩn 981-1005Mùa đông năm 979 Đinh Tiên Hoàng và con là Nam Việt Vương Đinh Liễn bị ám sát bởi một kẻ hầu cận tên Đỗ Thich, nhà Đinh mất ngôi. Biến cố kinh hoàng này có thể đã khiến sư VH suy nghĩ về ảnh hưởng của phong thủy địa lý đến vận mệnh của một triều vua. Kinh đô Hoa Lư của nhà Đinh không có khí vận lâu bền cho một vương triều. Khi vua Lê Đại Hành vẫn giữ Hoa Lư làm kinh đô, sư VH có thể tiên đoán vận số nhà Lê không dài . Tác giả Lê Văn Siêu viết ” Đất Hoa Lư vốn là nơi sơn động trong đó quyền thế tập của lang chúa còn to và vững. Đến như Lê Hoàn, Thập Đạo Tướng Quân, binh quyền ở cả trong tay mà vẫn phải chờ Dương Thái Hậu khoác áo long cổn cho mới chính thức được để lên ngôi Hoàng Đế. Áo long cổn ấy là biểu tương cái quyền của ông vua chung cho cả nước, mà cũng là biểu tượng cái quyền lang chúa ở riêng sơn động” sđd-VHĐL–trang 110.Việc Đỗ Thích giết một lúc hai vua Đinh còn là một nghi vấn lịch sử. Có thể hắn bị xúi giục bởi những hùng trưởng thân với nhà Tống. Cũng có thể hắn bị mua chuộc bởi những lang chúa vùng sơn động mà uy quyền truyền thống trong giòng họ vẫn còn rất mạnh mặc dù ngủ ngầm. Vua Lê Đại Hành hẳn đã rút kinh nghiệm từ biến cố này nên phải tuyển quan ngự lâm người miền xuôi, văn võ đạo đức hoàn toàn để bảo vệ hoàng vua lên ngôi thay nhà Đinh năm 981, sư VH đã 44 tuổi, được vua mời vào triều tham vấn việc chính trị kháng Tống phạt Chiêm, chứng tỏ sư đựơc vua kính trọng và tin tưởng ngang với sư Pháp Thuận thế hệ thứ 10. Năm này, Lý Công Uẩn được 7 tuổi, đã theo học sư VH ở chùa Lục Tổ. Sách ĐVSKTT chép ”Lúc còn trẻ thơ, LCUđến học ở chùa Lục Tổ, nhà sư Vạn Hạnh thấy khen rằng ”Đứa trẻ này không phải là người thường, sau này lớn lên, tất có thể giải quyết được mọi việc khó khăn, làm vua giỏi trong thiên hạ”sđd-Kỷ Nhà Lý-trang 159.Dưới sự giáo dục của sư, khi trưởng thành Lý Công Uẩn là người văn võ song toàn, lại sẵn có bản tính nhân từ , khoan thứ, tinh mật, ôn nhã. Hẳn là do sự tiến cử của sư VH mà chàng trai LCU được nhà vua tin dùng ”Lớn lên làm quan nhà Lê được thăng dần lên chức điện tiền chỉ huy sứ” sđd–trang 159.Chức vụ này giống như quan võ cận vệ bên vua. Đầu năm 1004, hoàng tử thứ ba là Nam Phong Vương Lê Long Việt được phong làm Thái Tử. Lý Công Uẩn có nhiệm vụ phò Thái Tử để chuẩn bị lên ngôi kế nghiệp. Đầu năm sau 1005 vua băng hà, Thái Tử lên ngôi. “Vua lên ngôi được ba ngày thì bị Long Đĩnh giết, bầy tôi đều chạy trốn, duy có điện tiền quân là Lý Công Uẩn ôm xác mà khóc. Lê Ngọa Triều khen là người trung , cho làmTứ sương quân phó chỉ huy sứ, thăng lên đến Tả Thân vệ điện tiền chỉ huy sứ” sđd–ĐVSKTT- bản in năm 1993–Tập I, trang 240 từ chức phó chỉ huy quân coi bốn mặt thành lên đến chức cận vệ.Long Đĩnh có tính tàn bạo, đã giết anh ruột thì bầy tôi ôm xác chủ mà khóc tất nhiên cũng sẽ bị giết. Thế mà Công Uẩn còn được Long Đĩnh khen là bầy tôi trung và cho làm cận vệ bên mình. Theo tác giả Lê Văn Siêu , sau đó sư Vạn Hạnh còn bầy kế để Công Uẩn lấy chị của vua làm vợ, lại cho em của vua là Bà Chúa Ba làm đệ tử tu hành ở chùa Hương sđd-VHĐL-trang 106 .Như vậy thanh thế của Lý Công Uẩn trong triều rất Giai đoạn vận động quần chúng chuẩn bị cho Lý Công Uẩn lên ngôi 1005-1009Lòng dân oán ghét Lê Long Đĩnh càng ngày càng lớn trong 4 năm trị vì là môi trường thuận lợi cho việc vận động quần chúng chấp nhận thay ngôi đổi chúa. ĐVSKTT ấn bản 2011, trang 155 chép lại một truyền thuyết theo đó sau khi cây gạo trồng ở hương Duyên Uẩn , châu Cổ Pháp trong chùa Minh Châu do sư La Quý An trồng từ năm 936 bị sét đánh, dân chúng thấy trên dấu sét đánh có bài thơ đại ý nói Vua thì non yểu, tôi thì cường thịnh, họ Lê mất thì họ Lý nổi lên. Sư VH cho loan truyền lời tiên tri này phù hợp với lời sấm truyền từ thời sư Đinh Không 200 năm trước. Chính sư lại bảo Lý Công Uẩn rằng ”Mới rồi tôi trông thấy lời sấm kỳ dị, biết rằng họ Lý cường thịnh tất dấy nên cơ nghiệp. Nay xem trong thiên hạ họ Lý rất nhiều, nhưng không ai bằng ông là người khoan từ nhân thứ, lại được lòng dân chúng mà binh quyền nắm trong tay, người đứng đầu muôn dân chẳng phải ông thì còn ai nữa. Tôi đã hơn 70 tuổi rồi mong được thư thả hãy chết để xem đức hóa của ông như thế nào, thực là sự may mắn muôn năm mới gặp một lần”. “ Nghe sư nói vậy, Công Uẩn sợ hãi lỡ ra bị tiết lậu nên cho người đem sư bí mật đi ẩn trốn ở làng Tiêu Sơn. Đến khi Lê Long Đĩnh chết năm 1009, con còn nhỏ, quan Chi Hậu Đào Cam Mộc nói với Lý Công Uẩn”Ông là người công minh dung thứ, khoan hồng nhân từ,lòng người phụ thuộc. Hiện nay trăm họ khốn khổ, dân không chịu nổi , ông nhân thế lấy ân đức mà vỗ về thì người ta tất xô nhau kéo về như nước chảy chỗ thấp, ai có thể ngăn lại được?” .Rồi Cam Mộc cùng bá quan tôn phù Lý Công Uẩn lên ngôi hoàng đế tức Lý Thái Tổ mở đầu cho triều nhà Lý kéo dài 216 ấy sư VH đang ở chùa Lục Tổ nói với người chung quanh về biến cố xảy ra trong triều. Sư đã biết trước, dường như mọi việc diễn tiến theo đúng kế hoạch vạch sẵn sđd-VNPGSL-trang 143.d/ Giai đoạn thiên đô từ Hoa Lư về Thăng Long 1010Tháng 10 năm 1009, Lý Thái Tổ lên ngôi tại Hoa Lư. Tháng 2 năm 1010 xa giá về quê Cổ Pháp ban thưởng tiền và lụa cho bô lão. Tháng 7 năm 1010 ban chiếu dời kinh đô từ Hoa Lư về thành Đại La. Thuyền đến bên thành có rồng vàng hiện ra trong thuyền ngự, bèn nhân đấy đổi tên thành Thăng Long, đổi châu Cổ Pháp thành phủ Thiên Đức, đổi tên Hoa Lư thành phủ Trường Yên. Thế là cả một quá khứ hai triều Đinh Lê 42 năm từ 968 đến 1009 coi như lùi xa trong lòng dân để đón chào một tương lai rạng dời đô xảy ra nhanh chóng trong vòng mấy tháng thật ra đã được thai nghén từ rất lâu trong kế hoạch trăm năm của sư Vạn Hạnh. Tác giả Nguyễn Lang viết ”Về phong thủy học, các thiền sư Định Không 730-808, La Quý An 852-936, và Vạn Hạnh 937-1018 đều là những người nổi tiếng . Ta có nhiều lý do để tin rằng quốc sư Vạn Hạnh , thầy của Lý Công Uẩn, là người đã thuyết phục vua này dời đô từ Hoa Lư ra Thăng Long trong ý nguyện bảo vệ cho nền độc lập được lâu dài……….Ta có thể nghĩ rằng thiền sư Vạn Hạnh vừa là người thảo chiếu, vừa là người thiết kế họa đồ cho kinh đô Thăng Long vậy” sđd-VNPGSL-trang 136.Trong tác phẩm VHĐL, tác giả Lê Văn Siêu viết ”Việc kiến trúc đô thị, thì từ ngày lập quốc cho tới đời Lý, cũng như từ sau đời Lý cho tới ngày chúng ta đang sống 1957, chưa hề có một công cuộc xây dựng đại quy mô như vậy……….Đứng ở phương diện nghệ thuật thuần túy thì phải coi thành Thăng Long là một sáng tác phẩm vô cùng cao đẹp” xem chi tiết trong sđd- Chương IV -Kiến Trúc Tinh Thần Thời Lý–trang 100 .Sư VH không để lại những tác phẩm lý luận triết học dài ngàn trang như kiểu các triết gia phương tây. Những chuỗi lý luận triết học luôn luôn phải dùng những khái niệm trừu tượng, dùng chữ này để giải nghĩa chữ kia khiến cho tâm trí người lý luận luẩn quẩn với những từ ngữ vô vị. Điều này trái với tôn chỉ của thiền phái TNĐLC vốn chủ trương tu tâm phải vượt qua ngôn ngữ , siêu việt khái niệm có -không. Thầy truyền “tâm ấn” cho đệ tử bằng cử chỉ hay hành động hơn là bằng ngôn ngữ. Đệ tử chứng được một trạng thái tâm giải thoát nào đó chỉ bằng cách tu tập thiền chỉ và thiền quán mà không bằng cách tìm hiều giải nghĩa kinh nhìn về lịch sử của các vị sư thiền phái này không phải là một cái nhìn không tưởng viễn đích luận vốn chủ trương một giai cấp đặc biệt trong xã hội sẽ trở thành một giai cấp phổ quát trong tương lai nhờ vào chế độ chuyên chính dùng bạo lực đàn áp các giai cấp khác. Đó cũng không phải là cái nhìn thực dụng với tâm trục lợi như kiểu Lã Bất Vi thời Đông Chu Liệt Quốc bên Trung Hoa mưu mô buôn vua để mong hưởng vinh hoa phú quí cho bản đó là cái nhìn với tâm vô chấp, vô cầu, dựa trên những điều kiện cụ thể hiện thực Yếu tố phong thủy hay địa lý, yếu tố nhân sự là quần chúng, yếu tố lãnh đạo là ông vua và tầng lớp thừa hành lệnh vua gọi là quần thần. Trong trường hợp sư VH, thì sư đã tìm được nhân tài để huấn luyện thành một ông vua giỏi và đạo đức là Lý Công Uẩn, đã có quần thần giỏi là Đào Cam Mộc, đã có quần chúng đang chịu khổ ải về ông vua ác Long Đĩnh, vùng địa lý có phong thủy xấu là Hoa Lư , tốt là thành Thăng Long. . Tiêu chuẩn tối cao làm lịch sử của sư là đào tạo một ông vua anh minh lo cho dân tộc độc lập tư chủ với ngoại bang và xây dựng hạnh phúc cho mọi tầng lớp xã hội. Việc đổi ngôi không đổ máu, không gây oán cừu là một hành động từ bi hiếm có trong chính VH viên tịch trước vua Lý Thái Tổ băng hà 1028. Ba triều vua kế tiếp của nhà Lý Lý Thái Tông 1028-1054 —Lý Thánh Tông 1054-1072—Lý Nhân Tông 1072-1127 đã củng cố nền độc lập tự chủ của dân tộc vững mạnh hơn cho đến đỉnh cao là dưới thời Lý Nhân Tông có danh tướng Lý Thường Kiệt vào năm 1075 trở đi lập đại công phá Tống bình Chiêm. Nhìn lại từ bước khởi đầu vào năm 1010 Lý Thái Tổ thiên đô về thành Thăng Long cho đến khi vua Lý Nhân Tông mất vào năm 1127, nhà Lý đã trụ hơn 100 năm. Trong lúc còn trị vì, chính vua Lý Nhân Tông đã nhìn nhận ảnh hưởng tinh thần to lớn của Sư Vạn Hạnh trong công cuộc dựng nên vương triều qua bài thơ truy tán công lao của Sư như sau Vạn Hạnh dung tam tếChơn phù cổ sấm cơHương quan danh Cổ PhápTrụ tích trấn vương kỳCó bốn học giả dịch bài thơ này ra bốn phiên bản như sau1/ Lê Văn Siêu dịch nghĩa Sư VH thông cả ba nền học tam giáoNho, Lão,Phật; sự ra đời của ngài thật rất hợp với lời sấm cổ. Ngài đã làm rạng danh quê nhà ở Cổ Pháp và đã chống gậy Phật để trấn giữ nơi đế đô VHĐL-trang 40.2/ Nguyễn Đăng Thục dịch nghĩa Thiền sư VH hợp nhất được ba cõi quá khứ, hiện tại, vị với tinh thần tiên tri thời cổ xưa. Quê hương danh tiếng là Cổ Pháp kinh đô Phật giáo Việt Nam tối xưa . Thiền sư đem gậy thiền học bảo vệ cho lãnh thổ quốc gia. Xem sách “Thiền Học Việt Nam–in năm 1966 tại Gia Định–Chương “Triết Lý dung tam tế của thiền sư Vạn Hạnh.3/Nguyễn Lang dịch thành thơ Hành tung thấu triệt ba đời. Ngữ ngôn phù hợp muôn lời sấm xưa. Quê hương Cổ Pháp bây giờ. Dựng cây tích trượng, kinh đô vững bền VNPGSL-trang 144.4/Hòa Thượng Thích Mãn Giác dịch thành thơ Vạn Hạnh thông ba cõi. Thật hợp lời sấm nhà tên Cổ Pháp. Gậy chống giữ nghiệp vua.VH,KĐQCLS–trang 13.Theo ý kiến thô thiển của chúng tôi, thì vua Lý Nhân Tông tán thán tài học của sư VH vì đã hòa hợp được ba nền học từ ngoài du nhập vào nước ta là Phật giáo, Nho giáo, Lão giáo vào trong tâm hồn dân tộc thành một hệ tư tưởng riêng của Việt Nam, khiến cho nhà Lý vững vàng cho đến thời vua là hơn trăm năm và sẽ còn trụ cả trăm năm nữa. Mặc dù nhà Lý dứt nghiệp sau hai trăm năm nhưng đã xây dựng được nền móng vững chắc cho nền độc lập tự chủ với các tộc hiếu chiến phương Bắc, khiến cho mọi cuộc xâm lăng sau này của tộc Nguyên Mông, của Hán tộc Minh triều hay Mãn tộc Thanh Triều đều nếm mùi thảm tôi xin phép kết luận bài này bằng lời nhận định của Hòa Thượng Thích Mãn Giác “Và nếu Niết Bàn là nẻo tận của kẻ đạt đạo, thì Vạn Hạnh quả là người đã đã xông thẳng vào rừng chông gai của lịch sử Việt Nam trong giai đoạn chuyển mình tự chủ để tiến vào nẻo ấy vậy”VH,KĐQCLS–trang 38.Westminster, CA ngày 23 tháng 10 năm 2016
Thông tin địa điểm Địa chỉ 39 Sư Vạn Hạnh, Phường 3, Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam Số điện thoại 098 960 24 11 Trang web Vị trí chính xác Hình ảnh
Số 39 Sư Vạn Hạnh, Phường 3,Quận 10, Hồ Chí Minh Giới thiệu Thông tin liên hệ Dịch vụ và chi phí Lịch làm việc Đặt lịch hẹn 1. Giới thiệu Phòng khám Nội Tim mạch - Đỗ Quang Huân nằm trong số những Phòng khám uy tín ở Hồ Chí Minh. Với đội ngũ tay nghề cao và chất lượng phục vụ tốt Phòng khám Nội Tim mạch - Đỗ Quang Huân từ lâu là địa chỉ Phòng khám tin cậy cho mọi người ở khu vực Quận 10 Hồ Chí Minh Loại hình Phòng khám Chuyên khoa chính Nội tim mạch Ngôn ngữ Tiếng Việt Bảo hiểm Theo quy định của Bộ Y Tế Cơ sở Phòng khám Nội Tim mạch - Đỗ Quang Huân Địa chỉSố 39 Sư Vạn Hạnh, Phường 3,Quận 10, Hồ Chí Minh Điện thoại liên hệ 08 6264 8929 - 08 3830 8565 Website 3. Dịch vụ và chi phí Khám và điều trị các bệnh chuyên khoa Nội tim mạch. Mỗi dịch vụ có giá khác nhau, xem bảng giá dịch vụ niêm yết hoặc liên hệ trực tiếp để được biết chính xác. Hình ảnh bảng giá chi phí dịch vụ Phòng khám Nội Tim mạch - Đỗ Quang Huân đang được chúng tôi cập nhật, bạn có thể gửi bảng giá bằng cách gửi cho ban quản trị hoặc bình luận ở dưới. 4. Thời gian làm việc Thời gian làm việc của Phòng khám Nội Tim mạch - Đỗ Quang Huân như sau Thứ Hai - Thứ Sáu 1700 - 1900 Thứ Bảy 800 - 1100 Thứ Ba & Chủ Nhật Nghỉ Lưu ý thời gian mở cửa có thể thay đổi vào ngày cuối tuần, Thứ 7 Chủ nhật hoặc ngày lễ tế hoặc theo lịch của bác sĩ. Liên hệ hoặc cập nhật thông tin Phòng khám Nội Tim mạch - Đỗ Quang Huân để biết lịch làm việc chính xác nhất. 5. Quy trình đặt lịch hẹn Để đặt lịch hẹn bạn có thể tới trực tiếp Phòng khám Nội Tim mạch - Đỗ Quang Huân trong thời gian mở cửa hoặc liên hệ qua điện thoại/SMS để hỏi và đặt lịch hẹn trước. Tìm kiếm bệnh viện, phòng khám, bác sĩ gần đây Phòng khám ở Hồ Chí MinhPhòng khám ở Quận 10 Hồ Chí Minh Phòng khám Nội tim mạch ở Hồ Chí MinhPhòng khám Nội tim mạch ở Quận 10 Hồ Chí Minh
/5 điểm 8 đánh giá điểm 235 đánh giá Hương vị 7 Phục vụ 8 Giá cả 9 Không gian 8 Địa chỉ 393 Sư Vạn Hạnh, P. 12, Quận 10 Điện thoại 1900 636 091 Giá tiền - Vinh Kun 16/12/2020 lúc 1328 - Beefsteak Củ Hành Tây - Sư Vạn Hạnh Quán này cũng đến ăn được vài lần, bán từ sáng đến tối, menu nhiều món, chủ yếu các loại bò, nhân viên phục vụ nhanh, bàn ghế chưa sạch lắm hơi ám mùi dầu mỡ. Giá món ăn thì ổn, phần bò đầy đủ có thịt... Xem thêm 16 Zân Zân 16/12/2020 lúc 0305 - Beefsteak Củ Hành Tây - Sư Vạn Hạnh Đi ăn ở đây vài lần rồi và mình đều rất thích. Nhưng lần mới nhất đây quán có thêm các combo cho mọi người lựa chọn, khá tiện lợi nha. Về món ăn thì vẫn ngon như trước. Chỉ có cái là thịt hơi quá lửa ... Xem thêm 18 Nguyễn Ý Thư 01/06/2020 lúc 0808 - Beefsteak Củ Hành Tây - Sư Vạn Hạnh Được trúng voucher discount 50% ăn bít tết Củ Hành Tây của group thì triển liền luôn 😆. Ở đây bò ăn ổn . Giá rẻ. Mà mì ý thì hông ngon cho lắm , mì ý ở đây loại nào sốt cũng lỏng lẻo hết á , b... Xem thêm 24 sangnguyen 06/10/2019 lúc 0658 - Beefsteak Củ Hành Tây - Sư Vạn Hạnh 📌 Beefsteak Củ Hành Tây 393 Sư Vạn Hạnh Mình order phần Bò Mỹ Củ Hành Tây 70k+đĩa salad ✔️ Xíu mại to bự, dai thơm mùi thịt hông độn quá nhiều. ✔️ Patê thơm béo, nên order thêm 1 cục để ăn c... Xem thêm 4 Tiết Mỹ Anh 09/08/2019 lúc 1016 - Beefsteak Củ Hành Tây - Sư Vạn Hạnh _B E E F S T E A K CỦ HÀNH TÂY_ Nói chung là tui đã từng ăn ở nhiều quán rồi nhưng đây là quán đầu tiên thiết kế menu theo kiểu vậy á. Mỗi món ăn sẽ được ghi chú lượng calo ở dưới, cực kỳ phù hợp ch... Xem thêm 39 DDAU 14/05/2019 lúc 0259 - Beefsteak Củ Hành Tây - Sư Vạn Hạnh Ghé quán cũng đc vài lần và cảm nhận khá là ok. Những điểm mạnh của quán vẫn còn được giữ như cũ. Giá cả hợp lý, chất lượng tốt, đối với những quán ăn mở được 1 thời gian, khách đông mà chất lượng vẫ... Xem thêm 0 DDAU 13/05/2019 lúc 2106 - Beefsteak Củ Hành Tây - Sư Vạn Hạnh Quán này đông khách cả sáng tới tối luôn. Mình đi ngang lúc nào cũng thấy quán đông khách hết cả. Nhận xét ăn ngon, giá cả ok, phần combo ăn lợi hơn nhiều. Menu cho cả nhà tham khảo nha, có đa đang m... Xem thêm 0 DDAU 13/05/2019 lúc 2059 - Beefsteak Củ Hành Tây - Sư Vạn Hạnh Đi kiếm gì ăn tối, thấy quán này đông khách nên tấp vô ăn thử D Quán có trên dưới đất lẫn trên lầu, mà có điều trên lầu hơi tối và nóng. Mình order ngay phần Bò Mỹ thập cẩm Phần thập cẩm 55k/1 phần ... Xem thêm 0 Thông tin chung Beefsteak Củ Hành Tây - Sư Vạn Hạnh ✅ địa điểm siêu chất lượng, xem ngay review tại 393 Sư Vạn Hạnh, P. 12, Quận 10 1900 636 091 - © Công Ty TNHH RIVICO • Địa chỉ 372-374 Trần Hưng Đạo, Phường 2, Quận 5, HCM • Số điện thoại 091 5650550 • Mã số thuế 0316141166 Giấy phép thiết lập MXH số 528/GP-BTTTT , Ký ngày 17/11/2020 Top tìm kiếm
Phòng khám bác sĩ Đỗ Quang Huân chuyên khoa tim mạch là một trong những dịch vụ khám được quan tâm nhiều nhất hiện. Gửi bạn thông tin chi tiết về PGS TS BS Đỗ Quang Huân để giúp bạn dễ dàng hơn trong quá trình lựa chọn bác sĩ khám chữa bệnh uy tín. Bác sĩ uy tín chuyên trị vấn đề chuyên khoa của bạn Bệnh viện nổi tiếng gần bạn nhất Top phòng khám giỏi, có tiếng tại Việt Nam PGS TS BS Đỗ Quang Huân Chuyên khoa chính Tim mạch Học hàm học vị PGS – TS – BS[elementor-template id="263870"] Đại học Y Dược TP HCM Viện Tim TP HCM Phòng khám bác sĩ Đỗ Quang Huân Chức vụ Giảng viên – Đại học Y Dược TP HCM Viện trưởng Viện Tim TP HCM Bác sĩ tại phòng khám cá nhân Trưởng khoa Thông tim can thiệp – Viện Tim TPHCM Quá trình đào tạo Tốt nghiệp Đại học Y tại Liên Xô cũ 1986 Học thông tim can thiệp tại Pháp phải qua thực hành trên 500 ca chụp mạch vành, trong đó 50% là đứng chụp vị trí chính và phải nong trên 100 ca mới được cấp bằng sau đại học về thông tim can thiệp Tốt nghiệp Tiến sĩ y khoa Được phong tặng danh hiệu Phó Giáo sư Bác sĩ tại hội thảo chuyên đề Kinh nghiệm chuyên môn BS tim mạch Đỗ Quang Huân là một bác sĩ tim mạch giỏi, tiếp cận nhanh với kỹ thuật tiên tiến, hiện đại. Với tài năng là tấm lòng đầy nhân ái, bác sĩ đã góp phần không nhỏ trong hành trình cứu người của mình. BS Đỗ Quang Huân đặc biệt giỏi chuyên môn với những bệnh về van tim, động mạch vành, rối loạn nhịp tim, suy tim, điều trị tăng huyết áp, các bệnh về cơ tim và viêm tắc động – tĩnh mạch… Phòng khám bác sĩ Đỗ Quang Huân Với nhiều năm kinh nghiệm trong việc khám và điều trị bệnh tim, phòng khám được nhiều người lựa chọn và tin tưởng. Ngoài ra, bạn có thể xem thêm thông tin phòng khám tại Phòng khám Bác sĩ Đỗ Quang Huân Địa chỉ Địa chỉ phòng khám Bs Đỗ Quang Huân 39 Sư Vạn Hạnh, Phường 3, Quận 10, TPHCM Số điện thoại Bs Đỗ Quang Huân 08 3830 8565 Số điện thoại lấy số 08 6264 8929 từ 7g – 11g Giờ làm việc Thứ 2 – thứ 6 trừ thứ 3 17g – 19g Thứ 7 8g – 11g Thứ 3, chủ nhật và các ngày lễ nghỉ Dịch vụ chính Phòng khám Tim mạch – BS Đỗ Quang Huân cung cấp những dịch vụ sau Điều trị bệnh van tim Điều trị bệnh cơ tim Điều trị bệnh rối loạn nhịp tim Điều trị bệnh động mạch vành Điều trị suy tim Điều trị cao huyết áp Điều trị viêm tắc động tĩnh mạch Tư vấn và hướng dẫn cách phòng ngừa bệnh tim mạch Như vậy, đã cung cấp cho bạn những thông tin cơ bản về kinh nghiệm chuyên môn của bác sĩ Đỗ Quang Huân mong rằng đây sẽ là một trong những BS tim mạch uy tín mà bạn có thể lựa chọn trong quá trình điều trị các vấn đề về tim mạch cho mình.
39 sư vạn hạnh